Bảng 2x2 trong nghiên cứu khoa học

pdf

Bảng 2x2 trong nghiên cứu khoa học
89

Bảng 2x2 trong nghiên cứu khoa học

1 MB

Bảng 2x2 trong nghiên cứu khoa học

6

Bảng 2x2 trong nghiên cứu khoa học

60

Bảng 2x2 trong nghiên cứu khoa học

5 (
22 lượt)

891 MB

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 89 trang, để tải xuống xem khá đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

Xem thêm: Sách Giáo Khoa Khoa Học Lớp 5

Chủ đề tương quan

BỘ MÔN DỊCH TỄ HỌC – KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HUẾ
YXYXY

ZWZWZ

GIÁO TRÌNH

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

(DÙNG CHO BS. ĐA KHOA HỆ 6 NĂM)

HUẾ – 2006

GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC CÁC LOẠI THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU Mục tiêu học tập 1. Phân loại được các loại thiết kế nghiên cứu; 2. Diễn giải được các loại thiết kế nghiên cứu; 3. Trình bày được giá trị của mỗi loại nghiên cứu. Để nghiên cứu đầy đủ một vấn đề sức khỏe (một bệnh chẳng hạn) thường phải qua các giai đoạn sau đây: – Giai đoạn mô tả: Š Nhận thấy vấn đề (một sự khởi đầu rất quan trọng); Š Xác nhận sự đồng nhất của các sự kiện (các cas giống nhau); Š Thu thập tất cả các sự kiện (nhận ra tất cả các cas hiện có); Š Xác định các đặc điểm của các sự kiện (mô tả các cas); Š Tìm cách mô tả quá trình xuất hiện và chiều hướng phát triển của hiện tượng. – Giai đoạn phân tích: Hình thành giả thuyết về mối quan hệ nhân quả (căn nguyên ?) và tìm cách phân tích các dữ kiện tùy theo các gỉa thuyết đã đề ra. – Giai đoạn thực nghiệm (nếu có thể): Kiểm tra giả thuyết: (bằng quan sát, hoặc bằng thực nghiệm). – Trình bày kết quả: Soạn thảo báo cáo, trình bày kết quả. Trong thực tế, cùng một lúc không thể thực hiện được tất cả các giai đọan nói trên; mà thường, trong mỗi nghiên cứu chỉ thực hiện được một giai đọan mà thôi. I. PHÂN LOẠI NGHIÊN CỨU Có các cách phân loại như sau: • Theo thời gian: – Nghiên cứu ngang – Nghiên cứu dọc – Nghiên cứu nửa dọc • Theo sự biến động của đối tượng trong các nhóm: – Nghiên cứu thuần nhất – Nghiên cứu hỗn hợp • Theo mục tiêu nghiên cứu: Š Tùy thái độ – Nghiên cứu mô tả người nghiên cứu – Nghiên cứu phân tích Š Theo bước logic

Š Theo cách so sánh

– Quan sát – Thực nghiệm – Quy nạp – Suy luận – Hồi cứu

– Tương lai

Cũng có thể chỉ dựa vào thái độ của người nghiên cứu, chia các nghiên cứu thành hai loại như sau:

1

Loại nghiên cứu • Nghiên cứu quan sát: – Nghiên cứu mô tả: ŠNghiên cứu trường hợp Š Nghiên cứu sinh thái Š Nghiên cứu ngang – Nghiên cứu phân tích: Š Nghiên cứu bệnh chứng Š Nghiên cứu thuần tập • Nghiên cứu thực nghiệm: – Thử nghiệm ngẫu nhiên – Thử nghiệm trên thực địa

– Thử nghiệm trên cộng đồng

Đồng nghĩa

Nghiên cứu tương quan Nghiên cứu tỷ lệ hiện mắc Nghiên cứu hồi cứu Nghiên cứu theo dõi Nghiên cứu can thiệp Thử nghiệm lâm sàng

Nghiên cứu can thiệp trên cộng đồng

Đối tượng
nghiên cứu

Quần thể Cá thể Cá thể Cá thể Bệnh nhân Người khỏe

Cộng đồng

1. Khái niệm về Cohorte Cohorte là một nhóm đối tượng được xác định bằng các đặc trưng cá nhân (tuổi, giới…); ở nhóm đó, người ta quan sát sự xuất hiện một bệnh nào đó bằng các khảo sát lập lại. Các đối tượng này, tại một thời điểm, vào đồng thời dưới sự quan sát của người nghiên cứu trong một thời kỳ dài. Các nghiên cứu về các cohorte chỉ có thể giải thích được khi ta xác định rõ ràng ngay từ đầu: Đặc trưng cá thể nào quy định nên cohorte; ở thời điểm nào của nghiên cứu cohorte được xác định (ngày tháng năm sinh của đối tượng, lúc bắt đầu phơi nhiễm với yếu tố nghiên cứu, lúc bắt đầu quan sát…); tình trạng nào của đối tượng trong cấu trúc nghiên cứu (mọi đối tượng hay chỉ những người phơi nhiễm). Các nghiên cứu về những diễn biến lâu dài thường dựa trên các nghiên cứu cohorte. Bằng các nghiên cứu cohorte, ta có thể theo dõi sự diễn biến về tỷ lệ chết ở các nhóm cá thể từ 55-64 tuổi vào các năm 1900, 1940, 1980. Nghiên cứu này có 3 cohorte; Diễn biến lâu dài về chiều cao của trẻ em ở độ tuổi nhất định vào các năm 1920, 1940, 1960, 1980 sẽ được theo dõi trên 4 cohorte. 2. Nghiên cứu ngang, nghiên cứu dọc, nghiên cứu nửa dọc Theo thời gian, theo số cohorte, và theo số lần khảo sát kế tiếp nhau, các nghiên cứu được phân chia như sau: 2.1. Nghiên cứu ngang Người ta đo lường trên một hoặc nhiều cohorte tại cùng một thời điểm – Chính là đánh giá tức thời một hiện tượng sức khỏe. Ví dụ, để đánh giá sự tăng trưởng của trẻ em từ 0 -18 tuổi, 19 nhóm trẻ ở các độ tuổi khác nhau (có khoảng cách 1 tuổi) được điều tra tại một thời điểm. Kiểu điều tra này cũng được áp dụng trong nghiên cứu hồi cứu. 2.2. Nghiên cứu dọc: Dựa trên sự khảo sát định kỳ, lập lại trên cùng một cohorte. Ví dụ, để đánh giá sự tăng trưởng của trẻ em từ 0 -18 tuổi, trên nhóm trẻ mới sinh, kiểm tra hằng năm cho đến khi nhóm đó đến 18 tuổi. Các nghiên cứu tương lai dựa vào nghiên cứu dọc hoặc nghiên cứu nửa dọc.

2.3. Nghiên cứu nửa dọc

2

Khảo sát định kỳ nhiều cohorte trong một khỏang thời gian nhất định. Ví dụ: Muốn có đươc hình ảnh tăng trưởng của trẻ em từ 0 -18 tuổi, phải điều tra trên các cohorte: mới sinh, 5 tuổi, 10 tuổi, 15 tuổi. Mỗi cohorte được khảo sát mỗi năm một lần trong 5 năm liên tục. Từ 4 cohorte đó ta sẽ có được sự tăng trưởng từ 0 – 19 tuổi trong 5 năm nghiên cứu. 2.4. Nghiên cứu dọc hoặc nửa dọc hỗn hợp Là khi, trong quá trình nghiên cứu, một số cá thể rời khỏi cohorte, một số gia nhập thêm vào cohorte. Nghiên cứu này theo dõi các cá thể tham gia từ đầu đến cuối cuộc nghiên cứu, và theo dõi cả những người chỉ tham gia một phần cuộc nghiên cứu. Nếu như các đối tượng trong cohorte vào và ra đồng thời của cuộc nghiên cứu thì gọi là nghiên cứu đồng nhất. Các nghiên cứu nửa dọc và hổn hợp là một sự dung hòa. Một nghiên cứu ngang, thường tổ chức dễ, cho kết quả nhanh, rẻ nhưng giá trị không nhiều lắm. Một nghiên cứu dọc, thường đắt hơn, nhưng kết quả chính xác hơn; nó đòi hỏi sự tổ chức phức tạp, và một sự hợp tác lâu dài của đối tượng. Sự lựa chọn lọai nghiên cứu phụ thuộc vào quần thể, đối tượng nghiên cứu, phụ thuộc vào chất lượng mong muốn của nguồn thông tin, tính khẩn cấp nhiều hay ít của kết quả nghiên cứu và phụ thuộc vào phương tiện có sẵn cho cuộc điều tra. Loại nghiên cứu Ngang Dọc

Nửa dọc

Số cohorte ban đầu Nhiều hoặc một Một

Nhiều

Số lần khảo sát trên mỗi cohorte trong quá trình nghiên cứu Một lần Nhiều lần

Nhiều lần

II. CÁC LOẠI THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC Có hai loại thiết kế nghiên cứu dịch tễ học cơ bản: nghiên cứu quan sát (observational study) và nghiên cứu can thiệp (interventional study) – Nghiên cứu quan sát: là loại nghiên cứu mà nhà nghiên cứu không hề tác động gì vào hiện tượng mình quan tâm mà chỉ đơn thuần quan sát hiện tượng đó mà không can thiệp gì. Nghiên cứu quan sát được chia làm hai loại dựa trên tính chất của sự quan sát: quan sát mô tả (descriptive study) và quan sát phân tích (analytic study). Các thiết kế mô tả thường chỉ quan tâm đến việc mô tả bệnh cùng với một (hay một số) yếu tố được cho là nguy cơ để tìm ra các mối liên quan có thể là kết hợp nhân quả tại một thời điểm nên chỉ có giá trị để hình thành giả thuyết. Các thiết kế phân tích quan tâm đến cả quá trình diễn biến của mối liên hệ giữa nhân và quả, và thường tập trung đi sâu vào quan sát và phân tích một kết hợp nhân – quả. Vì thế các nghiên cứu phân tích thường được tiến hành sau các nghiên cứu mô tả để kiểm định giả thuyết nhân quả mà nghiên cứu mô tả đã hình thành. Và trong các loại thiết kế quan sát dịch tễ học thì chỉ có nghiên cứu phân tích mới được phép kết luận về giả thuyết nhân quả. – Nghiên cứu can thiệp: Nghiên cứu can thiệp hay nghiên cứu thực nghiệm là loại nghiên cứu mà để kiểm định giả thuyết nhân quả, nhà nghiên cứu can thiệp vào hoặc tạo ra yếu tố được coi là nguyên nhân rồi theo dõi, ghi nhận kết quả của can thiệp đó và phân tích mối quan hệ giữa nhân và quả đó. Š Bảng 2 × 2: là một bảng gồm có 2 hàng và 2 cột; hàng trình bày tình trạng phơi nhiễm và cột trình bày tình trạng mắc bệnh (hình 1). Số liệu thu được qua các nghiên cứu thường được

trình bày bằng bảng 2 x 2, từ đó dễ dàng tính được các số đo cần thiết tùy vào mỗi thiết kế.

3

Tình trạng bị bệnh

Tình trạng
phơi nhiễm

Không

Tổng

A

B

A+B

Không

C

D

C+D

A+C

B+D

N

Hình 1: Bảng 2 × 2 1. Nghiên cứu quan sát 1.1. Các loại thiết kế quan sát mô tả: Mục đích của một nghiên cứu mô tả là mô tả cả bệnh và các yếu tố liên quan; các yếu tố này có thể là các yếu tố nguy cơ của bệnh; từ việc mô tả đó xây dựng nên một giả thuyết nhân quả; nghiên cứu mô tả chưa đủ sức chứng minh mối quan hệ nhân quả đó. Có các loại thiết kế quan sát mô tả như sau: (1) Nghiên cứu trường hợp (Case study): Là các nghiên cứu quan sát mô tả, thu thập các dữ kiện của từng cá thể nhằm: z Mô tả một hiện tượng lạ, hiếm gặp (mô tả một trường hợp): – Đây là thiết kế nghiên cứu cơ bản của phương pháp mô tả dịch tễ học dựa trên dữ kiện thu thập từ từng cá thể. – Là bệnh án chi tiết, tỉ mỉ, đầy đủ, do một hoặc nhiều thầy thuốc lâm sàng thực hiện trên một bệnh nhân; – Đòi hỏi phải khai thác đầy đủ, tỉ mỉ, đặc biệt là về căn nguyên nghi ngờ của bệnh và kết quả là phải có một hay nhiều giả thuyết nhân quả được hình thành. z Mô tả một chùm bệnh: Cũng tương tự như mô tả một trường hợp nhưng áp dụng mô tả cho một vài trường hợp cùng mắc một bệnh hay cùng có một hiện tượng sức khoẻ lạ, hiếm gặp. Mô tả một chùm bệnh có giá trị hình thành giả thuyết cao hơn so với mô tả một trường hợp đơn độc. z Mô tả các bệnh hoặc hiện tượng sức khỏe nhiều người mắc (mô tả một loạt các trường hợp): Áp dụng để mô tả một loạt các trường hợp cùng mắc một bệnh hoặc có cùng một hiện tượng sức khoẻ, thường trong một giới hạn thời gian và không gian nhất định. Đây là loại nghiên cứu thường được sử dụng trong lâm sàng, trong các mô tả tại bệnh viện, đặc biệt là trong những trường hợp không thể tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên. Mục tiêu của nghiên cứu một loạt các trường hợp thường là để mô tả về bệnh đang quan tâm. Sản phẩm thường là tỷ lệ mắc từng triệu chứng, độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán của các triệu chứng hoặc các bộ triệu chứng. Hạn chế của loại nghiên cứu này là phần suy lý thống kê bị hạn chế, kết quả nghiên cứu khó có thể ngoại suy ra cho quần thể, chỉ trừ trường hợp tiêu chuẩn chọn bệnh nhân hết sức chặt chẽ để bệnh nhân trong nghiên cứu có thể đại diện cho một quần thể nhất định. (2) Nghiên cứu tương quan (nghiên cứu sinh thái): Là nghiên cứu mô tả dựa trên dữ kiện chung của quần thể (hình 2). Người nghiên cứu dựa trên những số liệu chung của quần thể để tìm ra mối liên quan giữa yếu tố nghi ngờ và bệnh. Số liệu trong loại nghiên cứu này thường được thu thập từ các nguồn có sẵn khác nhau.

4

Chẳng hạn như người ta tính tổng lượng thịt tiêu thu hàng năm của một số nước, chia cho số dân để có lượng thịt tiêu thụ bình quân đầu người. Bên cạnh đó, lấy tổng số ung thư đại tràng để tính tỷ lệ ung thư đại tràng trên 100.000 dân. Và người ta nhận thấy, nước nào có mức tiêu thu thịt bình quân càng cao thì tỷ lệ ung thư đại tràng càng cao. Thiết kế tương quan đơn giản, dễ tiến hành và người ta khuyên nên sử dụng nhiều thiết kế tương quan để có thể gợi ý hình thành giả thuyết vì tương quan mạnh là bước đầu nhận xét về một kết hợp giữa phơi nhiễm và bệnh nhưng cần phải lưu ý đến một vài hạn chế cố hữu bên trong của thiết kế này.

Tình trạng bị bệnh

Tình trạng
phơi nhiễm

Không

Tổng

A

B

A+B

Không

C

D

C+D

A+C

B+D

Hình 2: Chọn mẫu trong nghiên cứu tương quan Số đo quan trọng trong nghiên cứu này là tìm hệ số tương quan r (sẽ nêu cụ thể cách tính r và giá trị của nó trong bài “Lựa chọn test thống kê thích hợp trong phân tích số liệu”). (3) Nghiên cứu ngang (nghiên cứu tỷ lệ hiên mắc): Thu thập dữ kiện trên từng cá thể về cả bệnh, về cả phơi nhiễm. Áp dụng để mô tả hiện tượng sức khoẻ và các yếu tố được cho là có liên quan đến hiện tượng sức khoẻ đó của quần thể tại một thời điểm nhất định. Khác với nghiên cứu một loạt các trường hợp, đối tượng nghiên cứu không phải chỉ là những người mắc bệnh hoặc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ đang được quan tâm mà là những người nằm trong quần thể được quan tâm; người đó có thể bị bệnh, có thể không; có thể phơi nhiễm, có thể không phơi nhiễm với yếu tố nghi ngờ (Hình 3). Thường nghiên cứu này cũng chỉ thực hiện trên mẫu. Khi trình bày kết quả, nghiên cứu này sẽ mô tả sự phân bố tỷ lệ hiện mắc bệnh theo các mức độ khác nhau của yếu tố nghi ngờ là yếu tố nguy cơ; qua đó thấy được mối liên quan

giữa các biến số (bệnh và yếu tố) và nêu lên các giả thuyết nhân quả.

Tình trạng
phơi nhiễm

Tình trạng bị bệnh Có

Không

Tổng

A

B

A+B

Không

C

D

C+D

N
Hình 3: Lựa chọn đối tượng trong nghiên cứu ngang

5

1.2. Các thiết kế quan sát phân tích (4) Nghiên cứu bệnh chứng (case-control study): Là nghiên cứu dọc hồi cứu; Căn cứ trên một giả thuyết nhân quả, nghiên cứu bệnh chứng được thiết kế nhằm so sánh và tìm sự khác biệt giữa 2 nhóm bệnh và không bệnh (nhóm chứng) trong mối quan hệ với yếu tố được coi là “nhân”. Điểm xuất phát của nghiên cứu bệnh chứng là bệnh. Đây cũng là đặc trưng nổi bật của loại nghiên cứu này. Xuất phát từ hiện tượng có hay không có bệnh đang được quan tâm, người ta hồi cứu về việc phơi nhiễm với yếu tố bị nghi ngờ là nguyên nhân của bệnh đó (hình 4). Loại nghiên cứu này được sử dụng nhiều để kiểm định giả thuyết vì tương đối dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian theo dõi dài nhưng khi thiết kế phải thận trọng để tránh sai lầm do việc không xác định được nhóm bệnh hoăc nhóm chứng, đặc biệt là nhóm chứng và chú ý hạn chế sai số nhớ lại.

Tình trạng bị bệnh

Tình trạng
phơi nhiễm

Không

A

B

Không

C

D

A+C

B+D

Hình 4: Lựa chọn đối tượng trong nghiên cứu bệnh chứng Số đo quan trọng nhất trong nghiên cứu này là OR (odds ratio: tỷ suất chênh); Khi số

liệu nghiên cứu được trình bày bằng bảng 2 × 2 thì OR được tính:

OR =

AD ;

BC

Giá trị của số đo này tương tự như Nguy cơ tương đối (RR) trong nghiên cứu thuần tập. (5) Thiết kế nghiên cứu thuần tập (cohort study): Là nghiên cứu dọc mang tính theo dõi. Thiết kế nghiên cứu thuần tập là một trong những nghiên cứu chủ yếu để kiểm định giả thuyết. Nghiên cứu thuần tập xuất phát từ hiện tượng có hoặc không phơi nhiễm với yếu tố bị nghi ngờ là nguy cơ của bệnh, theo dõi để ghi nhận sự xuất hiện của bệnh. Và căn cứ vào mức độ xuất hiện bệnh trong 2 nhóm có và không phơi nhiễm với yếu tố nghiên cứu để kết luận về mối kết hợp giữa yếu tố và bệnh. Có thể chọn một mẫu ngẫu nhiên trong một quần thể nhất định các đối tượng cần thiết; trong mẫu đó sẽ có nhóm phơi nhiễm và nhóm không phơi nhiễm với yếu tố nghiên cứu (hình 5); nhưng cách này thường có mức độ phơi nhiễm không đồng nhất ngay trong nhóm phơi nhiễm. Cũng có thể chọn riêng hai mẫu khác nhau, mẫu phơi nhiễm và mẫu không phơi nhiễm (Hình 6); với cách này, khi chọn mẫu đã đưa ra các tiêu chuẩn nhất định về phơi nhiễm nên sẽ có sự đồng nhất về mức độ phơi nhiễm trong các nhóm.

6

Tình trạng bị bệnh

Tình trạng
phơi nhiễm

Không

Tổng

A

B

A+B

Không

C

D

C+D
N

Hình 5: Nghiên cứu thuần tập (một mẫu) Tình trạng bị bệnh

Không

A

B

A+B

Không

C

D

C+D

Tình trạng
phơi nhiễm

Tổng

Hình 6: Nghiên cứu thuần tập (2 mẫu) Số đo quan trọng nhất trong nghiên cứu thuần tập là RR (relative risk: nguy cơ tương

đối). Khi số liệu của nghiên cứu được trình bày theo bảng 2 × 2 thì RR được tính:

RR =

A /( A + B )
C /( C + D )

Đặc trưng nổi bật của loại nghiên cứu thuần tập là xuất phát từ việc có hay không phơi nhiễm rồi theo dõi trong tương lai để ghi nhận sự xuất hiện của bệnh. Hiện nay, tôn trọng đặc trưng này và vận dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế, người ta đã đưa ra nhiều biến thể của nghiên cứu thuần tập. Các loại hình nghiên cứu thuần tập đã được đưa vào nghiên cứu hiện nay gồm có (hình 7): – Nghiên cứu thuần tập tương lai (prospective cohort study), có thể là: Š Nghiên cứu thuần tập tương lai hoàn toàn (concurrent prospective cohort study) Š Nghiên cứu thuần tập tương lai không hòan toàn (non – concurrent prospective cohort study) – Nghiên cứu thuần tập hồi cứu (retrospective cohort study) Thiết kế Tương lai Hồi cứu Phối hợp

(tương lai và hồi cứu)

Quá khứ

Hiện tại

Tương lai
B

P
P

P B

P

B

Ghi chú: P : phơi nhiễm; B : Bệnh Hình 7: Các loại thiết kế nghiên cứu thuần tập

7

1.3. Ưu nhược điểm của các nghiên cứu quan sát: được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1: Ưu nhược điểm của các nghiên cứu quan sát

Sai số chọn Sai số nhớ lại Mất theo dõi Yếu tố nhiễu Thời gian cần thiết

Giá thành

Nghiên cứu tương quan KĐ KĐ KĐ Cao thấp

thấp

Nghiên cứu ngang Trung bình Cao KĐ Trung bình Trung bình

Trung bình

Nghiên cứu Nghiên cứu bệnh chứng thuần tập Cao Thấp Cao Thấp Thấp Cao Trung bình Thấp Trung bình Cao Trung bình Cao

(Ghi chú: KĐ: không có đối tượng)

1.4. Khả năng áp dụng các loại nghiên cứu quan sát: được trình bày ở bảng 2. Bảng 2: Khả năng áp dụng các loại nghiên cứu quan sát Nc.

tương quan

Nc.
ngang

Nc.
bệnh chứng

Nc.
thuần tập

++++
++

+++++

+++++

+ ++

++

+b +c

+++

+++++ +++++ +++++

Š Nghiên cứu bệnh hiếm Š Nghiên cứu nguyên nhân hiếm Š Nghiên cứu nhiều hậu quả của cùng một nguyên nhân Š Xác lập mối liên quan về thời gian Š Đo trực tiếp số mới mắc

Š Khảo sát bệnh có thời kì tiềm ẩn dài

Chú giải:

+,…+++++: – : b : c

:

Mức thích hợp không thích hợp nếu nghiên cứu tương lai

nếu nghiên cứu toàn bộ quần thể

2. Nghiên cứu can thiệp Nghiên cứu can thiệp là loại nghiên cứu có giá trị nhất trong số các nghiên cứu y học nhưng là loại nghiên cứu đòi hỏi thiết kế đúng đắn, tiến hành nghiên cứu kiên trì và nghiêm túc theo đề cương, thời gian thường dài và tốn kém. Tùy theo đối tượng nghiên cứu và nơi thử nghiệm, có các loại nghiên cứu thực nghiệm như sau: – Nghiên cứu can thiệp trên cộng đồng: Là loại nghiên cứu thực nghiệm tiến hành trên cộng đồng. Đối tượng nghiên cứu là tất cả cư dân sinh sống trong cộng đồng được quan tâm không kể là có bệnh hay không. Có nhiều cách tiến hành thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng, có giá trị và phổ biến nhất là can thiệp cộng đồng có đối chứng nhưng đơn giản và dễ thực hiện nhất là can thiệp (so sánh) trước – sau. – Thử nghiệm trên thực địa: Là nghiên cứu thực nghiệm tiến hành trên cộng đồng nhưng đối tượng nghiên cứu là những người không có bệnh nhằm phòng bệnh cho họ.

– Thử nghiệm lâm sàng:

8

Là nghiên cứu tiến hành trong bệnh viện (có thể một hay nhiều bệnh viện) nhằm so sánh hiệu quả điều trị của 2 hay nhiều phương án điều trị. Đây cũng là nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả mà nhân ở đây là phương án điều trị và quả là hiện tượng khỏi hoặc không khỏi bệnh. Có nhiều cách thiết kế thử nghiệm lâm sàng: ngẫu nhiên hoặc không ngẫu nhiên, có đối chứng hoặc không đối chứng… Loại thử nghiệm lâm sàng có giá trị hơn cả là thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (essai contrôlé radomisé); qui trình tóm tắt như ở hình 8. Quần thể

nghiên cứu

Chọn theo tiêu chuẩn chặt chẽ Đủ tiêu chuẩn

nghiên cứu

Không đủ tiêu
chuẩn nghiên cứu

Mời tham gia nghiên cứu Từ chối không tham gia

Đồng ý tham gia

Chọn ngẫu nhiên Nhóm chứng

Nhóm can thiệp

Hình 8: Qui trình thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên 3. Giá trị của các loại thiết kế nghiên cứu Các nghiên cứu y học nói chung đều nhằm mục tiêu chủ yếu là tìm mối quan hệ nhân quả. Mỗi loại thiết kế nghiên cứu có giá trị suy luận căn nguyên nhất định. Có thể thấy thứ

bậc giá trị của chúng như sau: sơ đồ1.

9