Các đặc trưng cơ bản của mô hình vnen là gì?

Chương trình giáo dục VNEN là gì? Chương trình giáo dục VNEN là mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm.

Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam [Dự án GPE-VNEN, Global Partnership for Education – VNEN viết tắt của từ Viet Nam Escuela Nueva] là một Dự án về sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam.

Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy – học…

Chương trình giáo dục VNEN là gì?

Mô hình trường học mới VNEN có một số đặc điểm nổi bật như:

  • Hoạt động học của học sinh được coi là trung tâm của quá trình dạy học.
  • Giáo viên với vai trò là người hướng dẫn học, quan tâm đến sự khác biệt trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh.
  • Việc đánh giá học sinh thường xuyên theo quá trình học tập nhằm kiểm tra và hướng dẫn phương pháp học tập có hiệu quả – phương pháp học tập là một yêu cầu quan trọng.
  • Phải xây dựng môi trường học tập cởi mở, thân thiện, hiệu quả.
  • Sách giáo khoa gọi là tài liệu hướng dẫn học được thiết kế cho học sinh hoạt động, tự học, học nhóm; sách biên soạn cho 3 trong 1, nghĩa là sách dùng chung cho cả giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh.
  • Hoạt động học tập của học sinh không đóng khung trong bốn bức tường lớp học, mà phải giúp học sinh “vận dụng” và “tìm tòi, mở rộng” ra bên ngoài. Đây là các hoạt động giao cho học sinh thực hiện ở ngoài lớp học, giáo viên không tổ chức dạy học hoàn toàn trên lớp.

Nội dung các hoạt động này trong tài liệu hướng dẫn học chỉ là những yêu cầu, định hướng và gợi ý về phương pháp thực hiện, mô tả sản phẩm học tập phải hoàn thành… để học sinh tự phát hiện, lựa chọn tình huống thực tiễn nhằm vận dụng kiến thức – kỹ năng đã học được trong bài học; tìm tòi mở rộng thêm theo sở thích, sở trường, hứng thú của mình. Còn giáo viên có vị trí mới, được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ tác nghiệp, đáp ứng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức hoạt động học tập, giáo dục, đánh giá học sinh và phối hợp với cha mẹ học sinh, với cộng đồng. Nên nhà trường phải thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh và cộng đồng.

Những nhược điểm của mô hình VNEN

+ Số lượng học sinh trong lớp quá đông không thể áp dụng vì không có không gian. Số lượng thích hợp từ 25 đến 30 em, nhiều trường hiện nay có lớp trên 40 em.

+ Phụ huynh sẽ mang thêm gánh nặng về kinh phí, mua sách, tham gia xây dựng các công cụ hỗ trợ cho hội đồng tự quản, đồ dùng dạy và học… ở những vùng nghèo phụ huynh khó đáp ứng được.

+ Học sinh tiểu học còn nhỏ khó tự quản được cách học nhóm [nhận xét, đánh giá, báo cáo…]. Học sinh lớp 2, 3 khó có thể điều khiển lớp học như một giáo viên. Những cộng việc này ngay đến học sinh THCS cũng khó thực hiện tại sao lại ép học sinh tiểu học thực hiện.

+ Để học được theo mô hình VNEN thì học sinh phải chuẩn bị bài ở nhà. Vậy ngoài việc học 7 tiết ở trường thì về nhà mỗi ngày học sinh cũng dành khoảng 2-3 giờ để chuẩn bị bài. Điều này trái với qui định không giao bài về nhà cho học sinh và ảnh hưởng đến việc sinh hoạt khác.

+ Khi tổ chức ngồi học theo nhóm các em quay mặt vào nhau. Nhưng khi cô giáo giảng bài hay khi các bạn trình bày trên bảng thì một số em quay đầu nhìn lên ở một tư thế khó khăn. Có thể gây bệnh về cột sống cho học sinh.

+ Khi dạy và học theo VNEN các bước đi quá rập khuôn, máy móc, từ việc giáo viên ghi bảng, trình bày, tổ chức học sinh, còn học sinh chỉ hoạt động những thao tác rất giống nhau đây cũng là điều đáng lo ngại.

+ Khi dạy học mô hình VNEN giáo viên giao việc học tập cho các nhóm, hoạt động giữa các nhóm không hoàn toàn đồng bộ, sẽ có những học sinh yếu kém, trong khi đó giáo viên lại mất nhiều thời gian kiểm tra trong nhóm, không có đủ điều kiện để theo dõi hết các hoạt động của các em, như thế sẽ khó hướng dẫn thêm cho những học sinh yếu. Chỉ có một hai học sinh trong lớp là tích cực hoạt động và hiểu được bài. Còn các em thụ động, nhút nhát thì khó nắm bắt được bài.

+ Khi dạy học mô hình VNEN học sinh tự do chạy đến góc này, chạy sang góc kia, trao đổi một cách tự do, thoải mái trong giờ học không phải ngồi ngay ngắn, im lặng răm rắp hướng về phía giáo viên. Nhưng điều này sẽ tạo một không khí lớp ồn ào, khó kiểm soát, ảnh hưởng đến các nhóm khác và giáo viên khó nắm bắt được các em có làm việc đúng với nhiệm vụ mình ra hay không?

+ Để dạy học theo mô hình VNEN thì cần phải có Bộ tài liệu. Học sinh không học theo bộ sách giáo khoa hiện hành mà theo bộ sách được biên soạn lại. Bộ tài liệu này được coi là “3 trong 1” khi cả học sinh, giáo viên và phụ huynh đều có thể dùng làm tài liệu học tập và giảng dạy. Nếu không có Bộ tài liệu này thì nhà trường không thể dạy học theo mô hình trường học kiểu mới VNEN.

Chương trình giáo dục VNEN được áp dụng từ khi nào?

Dự án mô hình trường học mới VNEN bắt đầu triển khai từ năm học 2011-2012. Đến nay nhiều địa phương đã xin dừng mở rộng chương trình này vì có nhiều bất cập trong giảng dạy và học tập.

Cấu trúc bài học mô hình VNEN:

+ Mô hình VNEN giữ nguyên nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các môn học được tích hợp và giúp hỗ trợ nhau trong việc giáo dục học sinh, các môn học được chuyển thành hoạt động giáo dục đã làm giảm bớt gánh nặng trong học tập cho các em.

+ Bài học mô hình VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh, nhằm giải quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, củng cố, vận dụng, ứng dụng kiến thức vào thực tế.

+ Bắt đầu của mỗi hoạt động đều có một hình vẽ [logo] cùng với những “lệnh” thực hiện để học sinh dễ dàng nhận ra yêu cầu và các hình thức tổ chức thực hiện hoạt động học tập [học cá nhân, theo cặp, nhóm nhỏ hoặc toàn lớp]. Thiết kế của tài liệu rất tiện cho giáo viên và học sinh trong hoạt dộng dạy và học. Đa số kênh hình và kênh chữ rõ ràng giúp học sinh dễ hiểu, giúp học sinh tiếp cận bài một cách dễ dàng.

Đánh giá học sinh:

Đánh giá kết quả học tập các môn học và hoạt động giáo dục theo Chuẩn kiến thức kĩ năng trong chương trình cấp tiểu học và các năng lực cần thiết được hình thành qua mô hình trường học mới: tự học; làm việc cá nhân; làm việc theo nhóm; giao tiếp; vận dụng kiến thức vào cuộc sống; chia sẻ; hợp tác; tự đánh giá; đánh giá kết quả học tập của bạn; thực hiện các hoạt động theo mô hình VNEN. Đánh giá được tiến hành:

+ Đánh giá thường xuyên được tiến hành theo tiến trình bài học và các hoạt động giáo dục hàng ngày bằng hình thức nhận xét.

+ Đối tượng tham gia đánh giá kết quả học tập của mỗi học sinh gồm: học sinh tự đánh giá, bạn đánh giá, phụ huynh đánh giá, giáo viên đánh giá.

+ Thực hiện chương trình VNEN mở ra cơ hội để sự phối hợp nhà trường với các đoàn thể, giữa giáo viên với phụ huynh và cộng đồng xã hội. Phụ huynh trực tiếp tham gia giáo dục con em mình, trực tiếp tham gia đánh giá con em mình thông qua việc thực hành kĩ năng của con em.

CHUYÊN ĐỀ 

TRIỂN KHAI MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN

I. Giới thiệu về mô hình “Trường học mới” [VNEN]

Mô hình VNEN là mô hình nhà trường hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu của đổi mới PPDH, thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản: HS được học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức của cá nhân; Nội dung học thiết thực, gắn kết với đời sống thực tiễn hàng ngày của HS; Kế hoạch dạy học được bố trí linh hoạt; Môi trường học tập thân thiện, phát huy tinh thần dân chủ, ý thức tập thể; Tài liệu có tính tương tác cao và là tài liệu hướng dẫn HS tự học; Chú trọng kĩ năng làm việc theo nhóm hợp tác; Phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, cộng đồng và nhà trường; Tăng quyền chủ động cho GV và nhà trường, phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của các cấp quản lý giáo dục địa phương.

-Tổ chức hội đồng tự quản lớp học và hướng dẫn, bồi dưỡng của GV cho các thành viên, các ban của HĐTQ lớp học ;

-Sự hợp tác của phụ huynh học sinh và sự phối hợp của cộng đồng với GV và nhà trường;

-Tổ chức lớp học ở mô hình trường học mới  VNEN [góc học tập, thư viện lớp học, hòm thư cá nhân và hòm thư bạn bè, điều em muốn nói, sơ đồ cộng đồng, …];

-Vai trò của nhóm học tập, của GV chủ nhiệm lớp.

2. Đổi mới PPDH của GV và phương pháp học tập của HS.

Tự học của cá nhân, học tập hợp tác và sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm học tập của mô hình trường học mới VNEN.

Sử dụng tài liệu Hướng dẫn học các môn học: Cấu trúc TLHD học và vấn đề lựa chọn phương pháp hợp lí khi sử dụng tài liệu hướng dẫn học.

Việc sử dụng đồ dùng dạy học và ĐDDH tự làm.

Tự đánh giá quá trình học tập và kết quả học tập của học sinh [Thông qua Bảng tiến độ học tập cá nhân và Bảng tiến độ của HS trong nhóm- Trang 20 TL môn TN-XH lớp 3].

Giáo viên thường xuyên đánh giá quá trình, kết quả học tập, giáo dục của học sinh.

Đánh giá của gia đình và cộng đồng về kết quả giáo dục học sinh.

Đánh giá tiết dạy của giáo viên trong mô hình trường học mới.

ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH VNEN

I - Hoạt động giáo dục:

 -  Mục tiêu tổng thể của Mô hình VNEN là phát triển con người: Dạy chữ – Dạy người.

 -  Mô hình VNEN hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong nhà trường thành các hoạt động tự giáo dục cho học sinh.

 -  Mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường đều Vì lợi ích của học sinh, Của học sinh và Do học sinh thực hiện. Đặc trưng của Mô hình trường học mới là “ TỰ”

+ Học sinh:         Tự giác, tự quản;

                                      Tự học, tự đánh giá;

                                      Tự tin, tự trọng.

          + Giáo viên:        Tự chủ;

                                      Tự bồi dưỡng.

          + Nhà trường:     Tự nguyện

-   Mô hình VNEN có các tài liệu Hướng dẫn các hoạt động giáo dục: Tổ chức dạy học;

          -   Tổ chức các hoạt động giáo dục Đạo đức, Thể chất, Nghệ thuật và Kĩ năng sống cho học sinh.

II. Hoạt động dạy học:

Đổi mới căn bản của Mô hình trường học mới là chuyển:

- Hoạt động Dạy của giáo viên thành hoạt động Học của học sinh;

- Hoạt động quy mô lớp thành hoạt động của quy mô nhóm;

- Học sinh từ làm việc với giáo viên thành làm việc với Sách, có sự tương tác với bạn.

1. Vai trò của giáo viên:

Từ đặc thù nêu trên, hoạt động của giáo viên đã thay đổi căn bản. Việc chính của giáo viên là tổ chức lớp học thành các nhóm và̀ theo dõi, hướng dẫn hoạt động của mỗi học sinh ở nhóm học tập.

Trong mô hình VNEN, nhóm là đơn vị học tập cơ bản.

          Nhóm trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên trong nhóm: tự giác, tích cực hoạt động, tự quản, tự học, tự tìm tòi, khám phá phát hiện kiến thức theo hướng dẫn của sách. Mọi thành viên trong nhóm phải tự nghiên cứu tài liệu, tự học, chia sẻ với bạn, báo cáo với nhóm kết quả học tập. Các thành viên trong nhóm trao đổi, thống nhất và báo cáo kết quả học tập với giáo viên.

Tuy giáo viên không phải soạn bài nhưng phải nghiên cứu kĩ bài học, hiểu rõ quá trình hình thành kiến thức để tổ chức lớp học, chuẩn bị đồ dùng dạy học, điều chỉnh nội dung, yêu cầu bài học cho phù hợp với đối tượng và dự kiến các tình huống khó khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá trình hình thành kiến thức để có những giải pháp hợp lí, kịp thời .

2. Hoạt động của giáo viên:

Giáo viên chọn vị trí thích hợp để quan sát được hoạt động của tất cả các nhóm, các học sinh trong lớp.

Giáo viên chỉ đến hỗ trợ học sinh khi học sinh có nhu cầu cần giúp đỡ hoặc giáo viên cần kiểm tra việc học của một học sinh, hoặc một nhóm.

          Thông qua quan sát, kiểm tra, giáo viên đánh giá sự chuyên cần, tích cực của mỗi học sinh; đánh giá hoạt động của từng nhóm và vai trò điều hành của mỗi nhóm trưởng.

Phát hiện những học sinh chưa tích cực, học sinh gặp khó khăn trong quá trình học; kiểm tra, hỗ trợ kịp thời những học sinh yếu để giúp các em hoàn thành nhiệm vụ học tập.

Chốt lại những vấn đề cơ bản của bài học.

Đánh giá hoạt động học của các cá nhân, các nhóm và cả lớp.

Tạo cơ hội để mỗi học sinh, mỗi nhóm tự đánh giá tiến trình học tập của mình.

3. Dự giờ và đánh giá tiết dạy:

Người dự không tập trung quan sát, đánh giá hoạt động của giáo viên mà đánh giá quá trình học, kết quả học của học sinh.

Việc đánh giá dựa vào các bước lên lớp của bài học, đánh giá hoạt động và kết quả học tập của mỗi nhóm và mỗi học sinh, tập trung vào:

                   - Học sinh có thực sự tự học ?

                    - Học sinh có tự giác, tích cực ?

                   - Học sinh có thực hiện đúng các bước lên lớp ?

                   - Các nhóm có hoạt động đều tay, sôi nổi ?

                   - Nhóm trưởng điều hành nhóm có tốt ?

                   - Các  hoạt động học diễn ra đúng trình tự lô gic ?

                   - Học sinh hoàn thành các hoạt động nêu trong sách ?

                   - Học sinh có hiểu bài, nắm được bài, hoàn thành mục tiêu bài học ?

4. Đánh giá học sinh:

a/Giáo viên đánh giá học sinh thông qua việc quan sát:

                    - Tình thần, thái độ học tập, tính tự giác, tích cực tham gia hoạt động nhóm;

                    - Tính hợp tác, thực hiện điều hành của nhóm trưởng;

                    - Kết quả thực hiện các hoạt động trong bài, đối chiếu với mục tiêu bài học;

                    - Ghi chép của học sinh.

b/ Học sinh tự đánh giá:

Đánh giá việc hoàn thành từng hoạt động trong bài học;

Đánh giá kết quả đạt được sau mỗi hoạt động, sau bài học;

Đánh giá việc hoàn thành mục tiêu bài học.

c/ Đánh giá của nhóm:

Tinh thần, thái độ;

Sự tương tác với bạn bè;

Thời gian và chất lượng hoàn thành hoạt động học;

Kết quả các hoạt động học tập.

d/ Cộng đồng đánh giá:

Có thường xuyên trò chuyện với cha mẹ việc học ở trường;

                   Có thực hiện chăm sóc cây cối, vật nuôi, sức khỏe bản thân và người thân trong gia đình;

Sự tự tin trong trao đổi, trò chuyện, giao tiếp;

Khả năng diễn đạt, đối thoại, tương tác;

Sự chuyên cần trong học tập, tiến bộ trong học tập.

e/ Công cụ đánh giá:

Sự quan sát, theo dõi;

Phiếu đánh giá tiến độ học tập;

Bản tổng hợp ý kiến đánh giá của giáo viên, học sinh, nhóm, cha mẹ học sinh và cộng đồng.

CẤU TRÚC BÀI HỌC MÔ HÌNH VNEN

1 – Cấu trúc bài học mô hình VNEN:

Mô hình VNEN giữ nguyên nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng và kế hoạch dạy học theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Như vậy nội dung, yêu cầu và thời lượng học các môn không thay đổi.

Bài học mô hình VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh, nhằm giải quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, cũng cố, vận dụng, ứng dụng kiến thức vào thực tế.

Mô hình VNEN biên soạn SGK [Toán,Tiếng Việt, TN&XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lí] thành Hướng dẫn học  [Toán,Tiếng Việt, TN&XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lí] cho học sinh.

Như vậy Hướng dẫn học Toán ,Tiếng Việt, TN&XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lí là tài liệu học của học sinh và tài liệu dạy của giáo viên.

Thông thường, một bài học Toán, TN&XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lí học trong hai tiết, bài học môn Tiếng Việt học trong ba tiết, các bài kiểm tra bố trí một tiết; với bài học bố trí hai tiết, hết tiết một là hết hoạt động cơ bản và đã đáp ứng cơ bản mục tiêu của bài học. Tuy nhiên không bắt buộc mọi tiết học mọi giáo viên phải thực hiện máy móc điều này. Giáo viên có toàn bộ quyền bố trí thời gian để học sinh đạt được mục tiêu bài học, nắm được bài.

Mỗi bài học được thiết kế khoảng từ 12 đến 15 hoạt động với các nội dung chính sau:

-Mục tiêu bài học;

-Hoạt động cơ bản;

-Hoạt động thực hành;

-Hoạt động ứng dụng.

[Minh họa ở trang 54 TL Toán 3]

Phần hoạt động cơ bản giúp HS học qua trải nghiệm, học qua việc làm thực tế, học qua tìm tòi, khám phá, phát hiện với sự hỗ trợ, giúp đỡ thích hợp với GV.

Phần hoạt động thực hành thể hiện các hoạt thực hành của HS nhằm củng cố, rèn luyện, phát triển các kiến thức, kĩ năng vừa học.

Phần hoạt động ứng dụng khuyến khích HS bước đầu biết vận dụng kiến thức trong thực tế cuộc sống. Nhấn mạnh sự quan tâm, hỗ trợ HS học tập từ phía gia đình và cộng đồng. Khuyến khích HS mở rộng vốn kiến thức qua các nguồn thông tin khác nhau [ từ gia đình, cộng đồng thôn xóm, làng bản, …].

Bắt dầu của mỗi hoạt động đều có một hình vẽ [lô gô] cùng với những “Lệnh” thực hiện để HS dễ dàng nhận ra yêu cầu và các hình thức tổ chức thực hiện hoạt động học tập [ học cá nhân, theo cặp, nhóm nhỏ hoặc toàn lớp]. [Cụ thể ở trang đầu của TLHD các môn]

Trong thiết kế bài học, trước mỗi hoạt động đều có các lô gô chỉ dẫn. HS nhìn lô gô biết hoạt động đó thực hiện cá nhân, hay nhóm đôi, nhóm lớn hoặc chung cả lớp.

Giáo viên nên hiểu lô gô hướng dẫn chỉ có tác dụng định hướng cho các nhóm HS hoạt động, không máy móc mà có thể điều chỉnh để hoạt động học của học sinh đạt hiệu quả.

Lô gô làm việc cá nhân hiểu là cá nhân làm việc là chính. Nhưng khi làm xong có thể đổi vở cho bạn để kiểm tra bài làm của nhau, hoặc báo cáo với nhóm kết quả mình đã làm được.

Lô gô làm việc nhóm chủ yếu nhắc nhở HS hoạt động theo nhóm có sự tương tác trong nhóm để cùng giải quyết môt nhiệm vụ học tập nào đó. Có lô gô hoạt động nhóm, thì mỗi học sinh vẫn phải suy nghĩ, phải làm việc cá nhân, nhóm không làm thay, học thay cá nhân. Như vậy rất cần sự điều chỉnh linh hoạt của giáo viên để hoạt động học diễn ra tự nhiên, hiêu quả.

QUY TRÌNH 5 BƯỚC

1. Gợi động cơ, tạo hứng thú [bước khởi động]

- Kết quả cần đạt:

+ Kích thích tính tò mò, khơi dạy hứng thú của HS về chủ đề sẽ học; HS cảm thấy vấn đề nêu lên rất gần gũi với mình.

+ Không khí lớp học vui, tò mò, chờ đợi, thích thú.

- Cách làm: đặt câu hỏi; đố vui; kể chuyện; đặt một tình huống; tổ chức trò chơi . . . Có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng HS. [VD minh họa: trang 54 TL môn Toán]

2. Tổ chức cho HS trải nghiệm:

- Kết quả cần đạt:

+ Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiện có sẵn của HS để chuẩn bị học bài mới.

+ HS trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa đựng những nội dung kiến thức, những thao tác, kỹ năng để làm nảy sinh kiến thức mới.

- Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm gần gũi với HS. Nếu là tình huống diễn tả bằng lời văn thì câu văn phải đơn giản, gần gũi với HS. Có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ hoặc cá nhân từng HS. [VD minh họa: trang 30 và 54 TL môn Toán]

3. Phân tích – Khám phá – Rút ra kiến thức mới

- Kết quả cần đạt:

+ Huy động vốn hiểu biêt, khái niệm hay quy tắc lý thuyết, thực hành mới.

+ Nếu là một dạng toán mới thì HS phải nhận biết được dấu hiệu, đặc điểm và nêu được các bước giải dạng toán này.

- Cách làm:

+ Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp HS thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học.

Có thể sử dụng các hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận theo nhóm, hoặc các hình thức sáng tạo khác nhằm kích thích tính tò mò, sự ham thích tìm tòi, khám phá, phát hiện của HS . . . Nên soạn những câu hỏi thích hợp giúp Hsđi vào tiến trình phân tích thuận lợi và hiệu quả.

4. Thực hành:

- Kết quả cần đạt:

+ HS nhớ dạng cơ bản một cách vững chắc; làm được các bài tập áp dụng dạng cơ bản theo đúng quy trình.

+ HS biết chú ý tránh những sai lầm điển hình thường mắc trong quá trình giải bài toán dạng cơ bản.

- Cách làm:

+ Thông qua việc giải những bài tập rất cơ bản để HS rèn luyện việc nhận dạng, áp dụng các bước giải và công thức cơ bản [đối với môn Toán]. GV quan sát, giúp HS nhận ra những khó khăn của mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện.

+ Tiếp tục ra các bài tập với mức độ khó dần lên phù hợp với khả năng của HS; GV tiếp tục giúp các em giải quyết khó khăn bằng cách liên hệ lại với các quy tắc, công thức, cách làm, thao tác cơ bản đã rút ra ở trên.

+ Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng cá nhân hoặc theo nhóm, theo cặp đôi, theo bàn, theo tổ HS.

5. Vận dụng

- Kết quả cần đạt:

+ HS củng cố, nắm vững các nội dung kiến thức trong bài đã học.

+HS biết vận dụng kiến thức đã học trong hoàn cảnh mới, đặc biệt trong những tình huống gắn với thực tế đời sống hàng ngày.

+ Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội và vận dụng kiến thức mới.

- Cách làm:

+ HS thực hành, vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức cơ bản của nội dung bài đã học.

+ GV giúp HS thấy được ý nghĩa thực tế của các tri thức toán học, ngôn ngữ tiếng Việt. . . Từ đó khắc sâu kiến thức đã học.

+ Khuyến khích HS diễn đạt theo ngôn ngữ, cách hiểu của chính các em. Khuyến khích HS tập phát biểu, tập diễn đạt bước đầu có lý lẽ, có lập luận.

MƯỜI BƯỚC HỌC TẬP CỦA VNEN

Mọi ý tưởng canh tân hay đổi mới PPDH suy cho cùng đều là tìm cách chuyển quá trình thuyết trình quá trình thuyết trình một cách áp đặt của người dạy thành quá trình tự học, tự tìm tòi, khám phá của người học. Trong đó, sự trải nghiệm và tự kiến tạo kiến thức cho bản thân của người học có vai trò hàng đầu. Những nổ lực cá nhân của HS là trung tâm của quá trình giáo dục. Người học phải tự tạo dựng sự hiểu biết của riêng mình là chủ yếu chứ không chỉ đơn giản là tiếp thu một cách thụ động từ môi trường bên ngoài. Người GV phải biết khéo léo đặt vấn đề và tổ chức môi trường sư phạm cho HS tựu tìm tòi, khám phá, phát hiện, trong đó coi trọng việc học hợp tác,làm việc theo nhóm để giải quyết vấn đề.

      Để tổ chức cho học sinh học tập, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện đúng quy trình 10 bước lên lớp của mô hình VNEN:

1. Em học tập theo nhóm;

2. Em ghi đầu bài vào vở;

3. Em đọc mục tiêu bài học;

4. Em bắt đầu thực hiện hoạt động cơ bản;

5. Kết thúc hoạt động cơ bản, em báo cáo với thầy cô giáo;

6. Em bắt đầu hoạt động thực hành:   

           - Em bắt đầu bằng hoạt động cá nhân,

           - Em chia sẻ với bạn bên cạnh,

           - Em trao đổi kết quả với các bạn trong nhóm, kiểm tra sửa lỗi cho nhau;           

          7. Em bắt đầu hoạt động ứng dụng;

          8.  Em đánh giá cùng với thầy cô giáo;

          9.  Em tự đánh giá vào bảng đo tiến độ;

10. Em đã hoàn thành bài học hay còn phải học lại phần nào.

      [VD minh họa: trang 40 TL Toán 3].

ĐỊNH HƯỚNG VỀ VẬN DỤNG MÔ HÌNH VNEN

I. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG

           1. Học tập, vận dụng về :

          - PPGD ở các môn học Toán, Tiếng Việt, TNXH, các hoạt động giáo dục [đạo đức, âm nhạc, mĩ thuật, thủ công, thể chất, hoạt động theo chủ đề].

          - Hình thức tổ chức lớp học [cá nhân, nhóm, cả lớp].

- Quy trình, cấu trúc 5 bước của mô hình VNEN: Gợi động cơ, tạo hứng thú học tập cho HS - Trải nghiệm - Phân tích, khám phá, rút ra bài học -  Thực hành – Vận dụng.

- Vai trò và cách thức học tập của HS:

Tự giác, tự quản;

Tự học, tự đánh giá;

Tự tin, tự trọng.

- 10 bước học tập của HS [theo tài liệu HD].

Môi trường học tập [lớp học]: tùy điều kiện thực tế để vận dụng cho phù hợp. Cố gắng xây dựng tủ,  kệ đựng sách, tài liệu, đồ dùng học tập ngay tại lớp học, việc trang trí lớp . . .

Cách thức tự nhận xét, đánh giá của HS và cách nhận xét, ĐG của GV.

Về phạm vi tổ chức vận dụng ở các khối lớp: tập trung ở khối lớp 2 và 3 [do có tài liệu hướng dẫn] và có thể mở rộng PPGD ở các khối lớp khác.

2. CỤ THỂ:

- Học tập, vận dụng các phương pháp đặc trưng của môn Tiếng Việt,Toán,TN-XH.

VD:

+ Đối với môn Tập đọc:

PP tổ chức các hoạt động học đọc thành tiếng.

PP tổ chức các hoạt động học đọc thầm

PP tổ chức các hoạt động học đọc – hiểu

+ Với môn chính tả: nghe-viết, nhớ viết, chính tả âm vần

+ Với TLV: dạy học viết đoạn văn, viết văn bản ...

+ Dạy học kỹ năng nghe-nói

+ PP dạy học kiến thức tiếng Việt [Luyện từ và câu]

VD minh họa: TL môn Tiếng Việt

+ Với môn Toán: [minh họa trang SGK của HS ở trang 54 TL Toán 3]

- Về số học:

Cách hình thành số, đếm, đọc, viết số; So sánh các số.

Dạy phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia

Làm quen với biểu thức, cách tính giá trị biểu thức; Thống kê số liệu

Cách dạy các đại lượng và đo đại lượng

Dạy các yếu tố hình học

Dạy giải bài toán có lời văn

+ Và  với TN-XH và các hoạt động giáo dục khác.

Tất cả những nội dung trên được hướng dẫn cách tổ chức thực hiện rất cụ thể, dễ hiểu, [có kèm bài dạy, thao tác minh họa ] trong từng quyển tài liệu theo từng môn.

3. CÁCH THỨC ÁP DỤNG, TRIỂN KHAI ViỆC VẬN DỤNG MÔ HÌNH VNEN:

- Tổ chức nghiên cứu kỹ nội dung các tài liệu.

- Tổ chức các buổi hội thảo bàn về việc đổi mới PPGD theo VNEN [tổ chức từng môn, phân môn, cụ thể đến từng phương pháp đăc trưng ở từng môn, phân môn, kiểu bài, loại kiến thức . . .]

Lưu ý: tránh không tổ chức qua loa, chiếu lệ sẽ không thu được kết quả nào.

- Xây dựng các tiết dạy cụ thể có vận dụng PPGD của VNEN ở các môn học [lớp 2 và 3. Tiến đến triển khai áp dụng đại trà ở tất cả các khối lớp.

Video liên quan

Chủ Đề