Cách mạng Việt Nam chuyển hướng chỉ đạo chiến lược vào Nam nào
Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi đưa đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945) - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chính thức mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Thắng lợi vĩ đại đó được tạo nên từ nhiều nhân tố, nhưng nhân tố bao trùm có vai trò quyết định là sự chỉ đạo chiến lược của Đảng từ năm 1939, trực tiếp là trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (8/1945).
Nhân dịp kỷ niệm 75 năm sự kiện đặc biệt trọng đại này, Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) trân trọng giới thiệu bài viết: “Chỉ đạo chiến lược của Đảng trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945” của Tiến sĩ Trần Hữu Huy, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Show
Ngày 19/8/1945, cả Thủ đô ngập tràn cờ đỏ sao vàng. Hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ảnh tư liệu: TTXVN
Chuyển hướng đấu tranh đúng đắn, sáng tạo Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương ngay lập tức thi hành chính sách thời chiến rất hà khắc: Một mặt, trắng trợn phát xít hóa bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, tập trung chĩa mũi nhọn tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương; mặt khác, ra sức vơ vét của cải và tăng cường bắt lính phục vụ chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng 8 vạn binh lính người Việt Nam bị đưa sang chiến trường châu Âu. Chính sách phản động đó đã đẩy các tầng lớp nhân dân lao động vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp và tay sai càng trở nên gay gắt. Trước sự khủng bố quyết liệt của kẻ thù, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ động rút vào hoạt động bí mật. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh cách mạng trong tình hình mới, ngày 6/11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 họp tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị thống nhất một nhận định quan trọng: Trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc này, vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng. Trên cơ sở nhận định đó, Hội nghị đã quyết định những vấn đề cơ bản. Về mục tiêu đấu tranh: Đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị nhấn mạnh: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Về phương pháp đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương (thay cho Mặt trận dân chủ không còn phù hợp) nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các cá nhân yêu nước tập trung đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xít. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1939 - 1945, mở đường đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Bước sang năm 1940, đầu năm 1941, bối cảnh quốc tế và trong nước có những chuyển biến mạnh mẽ. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng và khốc liệt. Các nước thực dân, đế quốc phát xít đẩy mạnh vơ vét sức người, sức của ở các thuộc địa. Ở trong nước, tháng 9/1940, quân đội phát xít Nhật tiến công Lạng Sơn. Chính quyền thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng, rồi mở cửa cho chúng vào Đông Dương. Thực tế, dù có mâu thuẫn, nhưng Pháp và Nhật câu kết chặt chẽ với nhau để cùng áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương. Các tầng lớp nhân dân bị đẩy đến tình trạng vô cùng cực khổ, mâu thuẫn dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc phát xít càng thêm sâu sắc. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940), cuộc binh biến Đô Lương (13/1/1941). Dù bị kẻ thù đàn áp, chịu nhiều tổn thất, song các cuộc đấu tranh đó đã nêu cao tinh thần yêu nước, để lại cho cách mạng những bài học, kinh nghiệm quý báu. Trước tình hình ngày càng khẩn trương và cấp bách đó, đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (từ 10 - 19/5/1941), họp tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị nhận định: Ở Việt Nam và Đông Dương lúc này, mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách nhất là mẫu thuẫn dân tộc với đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Từ đó, Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng. Theo đó, mục tiêu đấu tranh được xác định là giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách cai trị của Pháp - Nhật, nhấn mạnh: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hội nghị cũng đi đến thống nhất về chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng trong phạm vi từng nước Đông Dương. Mỗi nước Đông Dương cần thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là hội cứu quốc nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước đấu tranh giành độc lập. Bên cạnh đó, Hội nghị quyết định xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng để chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Như vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng đã đề ra từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939), thể hiện rõ sự phát triển sáng tạo về mặt chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945. Phát động khởi nghĩa kịp thời, chính xác
Tại Sài Gòn, ngày 25/8/1945, hơn một triệu quần chúng nội thành và ven đô cùng một số tỉnh lân cận tiến hành mít tinh, tuần hành vũ trang khổng lồ, lật đổ chính quyền phát xít Nhật. Ảnh tư liệu: TTXVN phát
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến giai đoạn kết thúc. Chủ nghĩa phát xít liên tiếp thua trận, đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân đội các nước Đồng minh chuẩn bị đổ bộ vào Đông Dương. Trong tình thế khó khăn đó, phát xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp (9/3/1945) để độc chiếm Đông Dương. Sau khi đảo chính, quân Nhật cùng thế lực tay sai ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân ta ngày một thậm tệ hơn; đồng thời đưa quân tiến công vào các căn cứ địa cách mạng, tăng cường những hành động khủng bố, bắn giết, tàn sát... khắp nơi. Về phía ta, ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh), ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945), xác định rõ kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Vì vậy, cần phải thay khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi Nhật” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật cứu nước” mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cách mạng cả nước từ đây chuyển sang bước phát triển mới, phong trào đấu tranh vũ trang và các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp diễn ra ở nhiều địa phương, đẩy quân Nhật và chính quyền tay sai rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Đầu tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến những ngày cuối cùng. Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, chấm dứt chiến sự ở châu Âu, các nước trong phe Đồng minh (đứng đầu là Mỹ và Liên Xô) dồn sức tiêu diệt phát xít Nhật ở châu Á, buộc chính phủ Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện (13/8/1945). Tin tức đầu hàng nhanh chóng lan đi khắp mặt trận. Quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương bị tê liệt, mất tinh thần chiến đấu, chính phủ bù nhìn hoang mang cực độ. Không khí cách mạng sục sôi trong cả nước. Theo sự thỏa thuận của các nước Đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh - Pháp sẽ vào miền Nam Việt Nam (lấy vĩ tuyến 16 phân chia) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất đều muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền tay sai phục vụ mưu đồ cai trị, nô dịch lâu dài. Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị toàn quốc (từ 13 - 15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định thời cơ đã đến, quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để kịp thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Ủy ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”. Tiếp ngay sau đó, Đại hội quốc dân cũng họp ở Tân Trào (ngày 16/8/1945), bao gồm đại biểu của ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) đại diện cho các giới, các đoàn thể, các dân tộc, tiêu biểu cho ý chí và nguyên vọng toàn dân. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua một số chính sách quan trọng của Mặt trận Việt Minh. Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa, nhân dân cả nước với khí thế sục sôi đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Trong vòng nửa tháng (từ 14 - 28/8/1945), cuộc Tổng khởi nghĩa thành công hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chính quyền cả nước thuộc về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại quảng trưởng Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng tháng Tám 1945 là một trong những cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công triệt để nhất trong lịch sử, là minh chứng khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trên cơ sở nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, từ đó kiên quyết tập trung mọi lực lượng để giành thắng lợi. Đó chính là bài học kinh nghiệm rất quý báu, được Đảng ta tiếp tục chắt lọc vận dụng sáng tạo vào cuộc đấu tranh cách mạng giai đoạn sau, nhất là qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ (1945 - 1975). Phát huy tinh thần, giá trị bài học chỉ đạo chiến lược trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nguyên tắc cơ bản: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện chính sách mở rộng hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, trong đó phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn làm cơ sở để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đáp ứng nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài.
TTXVN/Báo Tin tức
Cách mạng tháng Tám 1945: Chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả hội tụ của nhiều nhân tố, trong đó chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945.
Chia sẻ:
Từ khóa:
Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945(ĐCSVN) - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn. Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9]. Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936). Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12]. Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15]. PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW |