Cái tôi trữ tình nhập vai quàn chúng là gì năm 2024

Là chủ thể lời nói, người phát ngôn, đại diện cho quan niệm thẩm mĩ và sự định giá thế giới trong tác phẩm trữ tình. Khoa học văn học ở thế kỉ XX đã làm sáng tỏ những điểm cốt lõi sau đây về bản chất và cấu trúc của Chủ thể trữ tình:

Thứ nhất, Chủ thể trữ tình là hình tượng hư cấu, không phải là tác giả – người sáng tạo, càng không phải là tác giả tiểu sử như độc giả ngây thơ vẫn thường có khuynh hướng đồng nhất.

Thứ hai, trong tác phẩm trữ tình, quan hệ giữa chủ thể lời nói đại diện cho ý thức tác giả [như ý thức của “tôi”, của “chủ thể”] và ý thức nhân vật [như ý thức của “người khác”, của “khách thể”] được kiến tạo theo kiểu riêng, mang đặc trưng của thể loại, không giống với tác phẩm tự sự. Theo M.M. Bakhtin, ý thức tác giả trong tác phẩm trữ tình “hòa tan một cách sáng tạo vào hình thức âm thanh bên ngoài và hình thức hội họa – điêu khắc, tiết tấu bên trong, vì thế có vẻ như vắng bóng tác giả, tác giả nhập vào nhân vật hoặc ngược lại, không có nhân vật, chỉ có tác giả. Thực ra ngay ở đây nhân vật và tác giả vẫn đối chọi với nhau và sự phản ứng lẫn nhau giữa chúng vẫn vang lên trong từng lời nói” [Bakhtin. Tr. 77] . Đặc trưng này mang đậm dấu ấn của kiểu tư duy nguyên hợp có nguồn cội từ thời cổ xưa.

Thứ ba, lịch sử văn học từng biết tới sự tồn tại của ba hình thức chủ thể lời nói ứng với ba loại hình thi pháp ở ba thời kì khác nhau: Chủ thể nguyên hợp [ở thời nguyên thủy, cổ sơ], Chủ thể điển phạm [ở thời cổ – trung đại] và Chủ thể cá tính sáng tạo [ở thời hiện đại từ nửa sau thế kỉ XVIII]. Ở thời nguyên thủy, với kiểu tư duy nguyên hợp, trong sáng tác nghệ thuật sơ khai, tiền văn học, “tôi” và “người khác”, “tác giả” và “nhân vật” chưa có sự chia tách, vì thế lời gián tiếp chưa tách khỏi lời trực tiếp; lời trần thuật và lời kể chuyện chưa tách khỏi lời nhân vật. Ở đó, quan hệ giữa các chủ thể lời nói không phải là quan hệ Chủ – Khách, mà là quan hệ Chủ – Chủ. Folklore của nhiều dân tộc còn ghi lại dấu vết mang bản chất của dàn đồng ca cổ xưa và quan hệ liên cá nhân độc đáo của chủ thể lời nói với những hình thức phát ngôn mà nếu nhìn từ quan điểm mĩ học ở các thời đại sau này thì không thể chấp nhận, ví như:

Chàng trai đi trên đường

Chàng đi trên đường

Trên đường lớn chàng đi

Em nghĩ, em mải nghĩ

Em ngã xuống đất, em lắng tai nghe

[Theo S.N. Broitman, tr. 22].

Ta bắt gặp ở đây sự chuyển vai phát ngôn một cách tự nhiên, vô duyên cớ từ ngôi thứ ba [thực ra là ngôi thứ nhất ẩn danh] sang ngôi thứ nhất [và ngược lại], từ giọng của chủ thể nam sang giọng của chủ thể nữ. Trong quá trình tiến hóa của các thể loại, khác với kịch và tự sự, tác phẩm trữ tình phát triển theo đường riêng, nó khước từ khách quan hóa nhân vật và bảo tồn quan hệ giữa các chủ thể lời nói theo kiểu Chủ – Chủ có nguồn cội từ thời nguyên thủy như thế cho đến bây giờ.

Nhưng quan hệ nguyên hợp giữa các chủ thể lời nói trong tác phẩm trữ tình dẫu bền chặt thế nào, thì ở đó vẫn có sự chia tách giữa ý thức tác giả và ý thức nhân vật. Bàn về mối quan hệ này, M.M. Bakhtin nhấn mạnh: “Tất nhiên ở đây vẫn có sự chia tách giữa tác giả và nhân vật, chỉ mỗi tiếng gầm rú câm nín, tiếng gào thét của nỗi đau, như trong mọi sự biểu cảm, là không biết tới sự chia tách ấy” [Bakhtin, tr. 82]. Ông nói thêm, không phải chỉ sự biểu cảm, mà cả “mỗi cái nhìn cũng đều nhắm tới nhân vật”, cho nên “có thể khẳng định rằng nếu không có nhân vật của cái nhìn thẩm mĩ thì sẽ chẳng có tác phẩm nghệ thuật nào cả và chỉ cần phân biệt nhân vật có thật, được biểu hiện và “nhân vật” tiềm năng, người tìm cách phá vỡ lớp vỏ bọc ở mỗi đối tượng của cái nhìn nghệ thuật” [Bakhtin, Tr. 85-86].

Thứ tư, tùy thuộc vào sự gần gũi với ý thức tác giả, hay ý thức nhân vật, Chủ thẻ trữ tình được chia thành Chủ thể trữ tình tâm tư và Chủ thể trữ tinh nhập vai. Lại có thể chia Chủ thể trữ tình tâm tư thành: Chủ thể trữ tình siêu cá thể, Cái “tôi” trữ tình và Nhân vật trữ tình. Nếu hình dung cấu trúc chủ thể trong tác phẩm trữ tình như một chỉnh thể nào đó mà hai cực của nó là bình diện ý thức tác giả và bình diện ý thức nhân vật, thì các hình thức Chủ thể trữ tình siêu cá thể sẽ nghiêng về bình diện tác giả, Chủ thể trữ trữ tình nhập vai nằm gần với bình diện nhân vật [gần như trùng với nhân vật], còn Cái “tôi” trữ tình và Nhân vật trữ tình chiếm giữ vị thế trung gian.

Chủ thể trữ tình nhập vai là hình thức chủ thể dễ nhận biết nhất vì nó có những đặc điểm gần với nhân vật kịch. Trong ý thức tác giả, lời của nó là lời của “người khác”, ví như lờitrong Anh Tài Lạc của Huy Cận là lời người thợ mỏ, trong Lời kỹ nữ của Xuân Diệu, trong Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, trong Mưa xuân, Lỡ bước sang ngang và một số bài thơ khác của Nguyễn Bính là lời người phụ nữ. Chủ thể trữ tình nhập vai có thể là con vật [Nhớ rừng của Thế Lữ], là thần linh [thơ thần Nam quốc sơn hà], là một nhân vật lịch sử hay một nhân vật huyền thoai [ví như Hoàng đế Esarhaddon trong Esarhaddon của V. Bryusov]. Trong nhiều trường hợp, nó chỉ là sự phân thân, là “mặt nạ” tác giả.

Chủ thể trữ tình siêu cá thể là hình thức bộc lộ ý thức tác giả quan trọng nhất và phổ biến nhất của thơ dân gian, thơ trung đại và cả thơ hiện đại sau này. Trong văn bản, nó phát ngôn dưới hình thức chủ ngữ ẩn, không có ngôi biểu hiện về mặt văn phạm, lời thơ giống như không phải lời của ai, ví như: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai” [Mãn Giác Thiền sư, Cáo tật thị chúng], “Thu đến cây nao chẳng lạ lùng/ Một mình lạt thủa ba đông/ Lâm tuyền ai dặng già làm Khách/ Tài đống lương cao ắt cả dùng” [Nguyễn Trãi, Tùng], “Bước xuống Đèo Ngang bóng xế tà/ Cỏ cây chen lá đá chen hoa” [Bà Huyện Thanh Quan, Qua Đèo Ngang], “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyên xuôi mái nước song song” [Huy Cận, Tràng giang]… Ở đây chỉ có giọng của người nói; ý thức tác giả tựa như tan chảy vào ý thức sáng tạo, nên người đọc không thể nhận ra chủ thể lời nói và sự mô tả được chia tách thành tác giả và nhân vật.

` Cái “tôi” trữ tình [thuật ngữ lần đầu được M. Susman đê xuất trong công trình Bản chất của thơ trữ tình Đức xuất bản năm 1910] hiện diện trong văn bản qua các đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất số ít hoặc số nhiều: “tôi”, “anh”, “em”, “ta”, “chúng ta”, “chúng tôi”… Nó là chủ thể phát ngôn, nhưng “nằm trên bình diện thứ nhất của tác phẩm không phải bản thân nó, mà là một sự một sự kiện, một hoàn cảnh, một tình huống, một hiện tượng nào đó”. Nó chỉ tồn tại như một “hình thái ý thức tác giả để phóng chiếu qua đó các chủ đề của tác phẩm”, ví như: “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn/ Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn/ Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương…” [Xuân Diệu, Chiều]: Ở đây, thế giới được quan sát hóa thành thế giới xúc động trữ tình của cái “tôi” và trung tâm của sự chú ý là bức tranh thế giới và sự xúc động ấy, chứ không phải bản thân người đang xúc động. Nhưng khác với Chủ thể siêu cá thể, Cái “tôi” trữ tình có thể trở thành một Chủ thể tự nó, hiện lên như một hình tượng độc lập. Hình tượng này do Cái tôi trữ tình tạo ra, nên nó vượt ra ngoài giới hạn chủ quan của tác giả, khác biệt hoàn toàn với tác giả tiểu sử và con người có thật của cá nhân nhà thơ. Hình tượng thi sĩ – lãng tử trong thơ ca lãng mạn, hay thi sĩ – chiến sĩ trong thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa là hình thức chủ thể trữ tình như vậy.

Khác với ba hình thức Chủ thể nói trên, Nhân vật trữ tình [thuật ngữ do Yu.N. Tynyanov đề xướng] vừa là Chủ thể tự nó, vừa là Chủ thể cho nó, nghĩa là trong tác phẩm, nó trở thành đối tượng mô tả, thành chủ đề riêng của bản thân nó. Vì thế, so với Cái “tôi” trữ tình, nó hiện lên trong hình tượng một con người cá thể, vừa tách khỏi tác giả – người sáng tạo một cách rõ rệt hơn dưới nhiều hình thức mặt nạ, vừa xích lại gần nhất với tác giả tiểu sử. Trong thơ trữ tình hiện đại, Nhân vật trữ tình là hình thức chủ thể giúp người nói nhìn bản thân không chỉ từ bên trong, mà còn từ phía bên ngoài như nhìn một “người khác”. Không phải sáng tác của nhà thơ nào cũng tạo ra được Nhân vật trữ tình. Ta có thể nhận ra Nhân vật trữ tình trong từng bài thơ. Nhưng thông thường, phải đọc một chuỗi bài, một tập, hoặc nhiều tập thơ của một tác giả nào đó thì ta mới có ý niệm rõ rệt về Nhân vật trữ tình trong sáng tác của một tác giả ấy.

NGƯỜI BIÊN SOẠN: La Khắc Hòa

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bakhtin M.M., Tác giả và nhân vật trong hoạt động thẩm mĩ// Bakhtin M.M., Tuyển tập, bộ 7 tập, T.1, M., 2003

2. Broitman S. N., Thi pháp học lịch sử// Tamarchenko N.D.[Chủ biên], Lí luận văn học [2 tập], T.2 Nxb Academa, 2004

3. Korman B.O. Thuật ngữ nghiên cứu văn học về vấn đề tác giả. Izhevsk, 1982

4, Tamarrchenko N.D. [Chủ biên]. Thi pháp học. Từ điển các thuật ngữ và khái niệm chuyên dụng. Nxb Kulaginoi Intrada, 2008

Chủ Đề