Chính quyền cách mạng chính thức mở lớp dạy chữ quốc ngữ đầu tiên trong thời gian nào
Alexandre de Rhodes (15 tháng 3 năm 1593 – 5 tháng 11 năm 1660) là một nhà truyền giáo Dòng Tên và một nhà ngôn ngữ học người Avignon. Ông là một trong những giáo sĩ đã góp phần quan trọng vào quá trình truyền bá Công giáo tại Việt Nam.
Alexandre de Rhodes Tranh chân dung Alexandre de Rhodes Chữ Quốc ngữ Việt Nam được hình thành nhờ công trình tập thể của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, và Ý, với sự trợ giúp của các giáo hữu Việt Nam và Nhật Bản, do giáo sĩ Francisco de Pina khởi đầu.[1][2] Khi Rhodes đến xứ Đàng Trong thì phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng ký tự Latinh, nay gọi là chữ Quốc ngữ, đang được xây dựng.[3] Alexandre de Rhodes đã ghi nhận và thừa hưởng di cảo của những người tiền bối. Ông không phải là người tạo ra chữ Quốc ngữ nhưng có công hệ thống hóa và san định hệ chữ này, cũng như biên soạn và giám sát việc ấn hành Từ điển Việt–Bồ–La, là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên.[4][5][6] Công cuộc truyền giáo ở Việt Nam của ông thăng trầm bởi việc giao thương của chúa Trịnh và chúa Nguyễn với Bồ Đào Nha và xung đột giữa hai miền Đàng Ngoài–Đàng Trong. Khi việc giao thương với Bồ Đào Nha bị gián đoạn, ông bị chính quyền trục xuất.[7] Những năm cuối đời, ông truyền giáo tại Ba Tư.
Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon thuộc Lãnh địa Giáo hoàng (nay ở miền nam nước Pháp), trong một gia đình khá giả. Một số nguồn ghi năm sinh của ông là 1591, các nghiên cứu mới hơn chỉ ra rằng ông sinh năm 1593. Sử liệu trước đây thường cho rằng ông có gốc Do Thái.[8] Tổ tiên ông tới từ vùng Aragón, Tây Ban Nha sang tị nạn dưới bóng Giáo hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo hoàng.[9] Sau khi hoàn thành trung học tại quê nhà, ông vào Nhà Tập Dòng Tên tại Roma ngày 24 tháng 4 năm 1612, học thiên văn và toán học. Một người bạn đồng môn của ông là Johann Adam Schall von Bell sau này rất nổi tiếng tại Trung Hoa. Thời kỳ này, công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển nhưng cũng gặp sự kháng cự của các chính quyền sở tại. Vì thế, bên cạnh nhiệt tâm truyền giáo, còn phải kể ước muốn được đổ máu đào minh chứng cho Chúa Giêsu của các vị thừa sai tiên khởi. Tên ông được người đời sau phiên âm là A-lịch-sơn Đắc Lộ.[10] Trong bối cảnh đó, Alexandre de Rhodes đã xin và được giáo sĩ cấp trên chỉ định đi truyền giáo tại Nhật Bản. Ngày 4 tháng 4 năm 1619, ông lên đường sang Nhật vào tuổi 26.
Đầu tiên, Alexandre de Rhodes cập bến tại Goa, đợi chờ cơ hội thuận tiện đặt chân lên đất Nhật Bản. Nhưng tình hình bách hại Kitô giáo dữ dội tại đây đã khiến các giáo sĩ bề trên chỉ định ông đi Trung Quốc. Ông lên tàu đi Ma Cao, nhập học Đại học Thánh Phaolô. Tại Macao ông đã ghi lại nhận xét về người Trung Hoa:
Ông còn viết:
Tháng 12 năm 1624, Alexandre cùng với bốn cha Dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ông bắt đầu học tiếng Việt từ giáo sĩ Francisco de Pina, người đã đến Đàng Trong trước ông 7 năm và là nhà truyền giáo thông thạo tiếng Việt nhất, khi đó Pina cũng đang phát triển cách ghi âm tiếng Việt bằng ký tự Latinh. De Rhodes cũng học tiếng Việt từ một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ông viết:
Từ đó, Việt Nam trở thành nơi cư trú của Alexandre de Rhodes, nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến năm lần. Sau hơn một năm học tiếng Việt ở Đàng Trong, ông trở lại Macao để chuẩn bị tới Đàng Ngoài truyền giáo. Cùng với Pedro Marques, ông cập bến của Bạng, Thanh Hóa ngày 19 tháng 3 năm 1627. Hai nhà truyền giáo đến Kinh đô ngày 2 tháng 7 và được chúa Trịnh Tráng dựng nhà cho ở.[9] Hai giáo sĩ được tự do giảng đạo trong hơn một năm rồi bị quản thúc. Các hậu phi và hoạn quan vì ghét lời dạy một vợ một chồng nên tung tin đồn hai giáo sĩ là phù thủy.[7] Hai ông bị trục xuất và theo tàu Bồ Đào Nha về Macao vào tháng 5 năm 1630. De Rhodes làm Giáo sư Thần học tại Học viện Madre de Deus trong 10 năm.[9] Từ năm 1640 tới 1645, ông bốn lần đến Đàng Trong truyền giáo dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Thời gian Alexandre de Rhodes giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ các cha thừa sai Dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Ông kể lại công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài:
Ông bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài một lần và khỏi Đàng Trong ba lần mà lần cuối năm 1645 là vĩnh viễn, do chính quyền chúa Trịnh và chúa Nguyễn không còn lợi dụng được các nhà truyền giáo để giao thương với Bồ Đào Nha.[7] Trở về châu ÂuTheo yêu cầu của bề trên Dòng Tên ở Macao, de Rhodes đáp tàu trở về Roma để trình bày về tình hình của tỉnh dòng Nhật Bản và giáo hội Việt Nam. Mãi tháng 6 năm 1649, ông mới về đến châu Âu.[9] Tại đây ông xuất bản hai cuốn sách do mình biên soạn năm 1651. Alexandre de Rhodes vận dụng mọi khả năng hiểu biết về công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á châu, đã xin Tòa Thánh gửi các Giám mục truyền giáo đến Viễn Đông, để các ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ. Có tác giả (Bùi Kha)[11] cho rằng ông có vận động Pháp đánh chiếm Việt Nam dựa vào một đoạn trích:
Cao Huy Thuần cũng cho rằng từ soldat có thể được dịch là "binh sĩ".[12] Tuy nhiên, có những ý kiến chỉ ra rằng cách dùng từ ngữ trong đoạn trên không đề cập tới vận động xâm lăng nhưng là một ẩn dụ cho việc truyền giáo.[13][14] Việc cố tình diễn giải thành ý đồ xâm lược là một suy luận "chủ quan võ đoán",[15] thể hiện lập trường "hận thù tôn giáo".[16] Việc tưởng tượng này về de Rhodes được đánh giá là nằm trong một tưởng tượng lớn khác về lịch sử cận đại.[17] Tại Ba TưNăm 1655, ông đặt chân tới Ba Tư. Ông mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 ở Isfahan, sau 5 năm truyền giáo ở đây.[9]
Vào năm 1651, ông cho in cuốn Từ điển Việt–Bồ–La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Bản thân Alexandre de Rhodes đã viết như sau:
Phép giảng tám ngàyPhép giảng tám ngày (tựa Latinh: Cathechismus... in octo dies diuisus) giáo sĩ Đắc Lộ soạn và cũng được ấn hành năm 1651. Khác với phần tự điển ghi từ vựng, Phép giảng tám ngày là tác phẩm văn xuôi, phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ 17.
Alexandre de Rhodes từng gọi Phật Thích Ca là "thằng hay dối" trong sách Phép giảng tám ngày (nguyên văn: "Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra, có ngã với thì đã tỏ").[18] Cũng trong cuốn "Phép Giảng Tám Ngày", de Rhodes đã gọi Khổng Tử là "người chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, thật là độc dữ". Cũng trong sách này, ông đã viết nhiều điều sai về Đức Phật, ví dụ: Tất Đạt Đa (tên trước khi xuất gia của Phật) "đẻ được một con gái đoạn thì đi ở trên rừng một mình, dẫu vợ cãi mà chẳng cho, vì mình đã quen làm việc dối như pháp môn phù thủy"... Cuốn sách luôn nói đến sự "thờ bụt thần ma quỷ", có ý hạ Đức Phật xuống hàng ma quỷ. Sách cũng gọi A-la-la và Ưu-đà-la (2 vị đạo sĩ đã dạy Tất Đạt Đa môn thiền định) là "2 con quỷ", và "nó (Tất Đạt Đa) thì ngồi giữa hai thầy quỷ ấy, mà dạy nó chớ tin có Chúa Trời, cùng đặt tên nó là Thích Ca" Trong mục "Đạo bụt: giáo ngoài và giáo trong", de Rhodes liên tục có những đả kích với đạo Phật, ông nói "Nó (Phật Thích Ca) và quỷ làm thầy nó, thấy vậy, thì lấy đàng khác mà mới dạy những truyện dối trá dã dầy", "sự thờ bụt này là thói rợ mọi", "ta suy bởi đâu mà ra, thì một chốc ta biết là đạo gian... Đến khi Thích Ca ra dạy kẻ khác sự đạo gian ấy, vì trái lẽ lắm, thì người ta bỏ mà đi hết"", "ai phải đạo bụt trong độc ấy, thì quỷ quái hơn kẻ theo đạo ngoài vậy", "làm chùa thờ Thích Ca thì là đứa gian vậy"[19][nhấn mạnh quá mức? – thảo luận] Cũng trong mục này, de Rhodes phê phán cả tục lệ của người Việt cúng đồ ăn cho người chết, ông viết "Sao người Annam mọi năm có giữ ngày cha mẹ, ông bà, ông vải sinh thì, mà làm giỗ chạp hết sức?" vì cho rằng linh hồn người chết không ăn được đồ cúng nên việc làm đó là vô ích, "Sinh kí dã tử qui đã: Sống thì gưởi, chết thì về... Sao tốn của bấy nhiêu mà làm cỗ làm mâm, cùng nhiều sự nữa có dọn cho cha mẹ khi đã sinh thì? Vì chưng nếu linh hồn chết với xác, lo cho kẻ chết chẳng có làm chi... khi linh hồn ta đã khỏi xác thịt này, chẳng còn có dùng ăn uống hay là mặc, cùng các kỳ sự vê xác, vì linh hồn ta là tính thiêng liêng... Mà sao người Annam dám cúng cho cha mẹ, khi đã sinh thì, những của dối ấy?"[20][nhấn mạnh quá mức? – thảo luận] Giáo sư Nguyễn Văn Kiệm cho rằng: "Các giáo sĩ thừa sai, trong đó có Alexandre de Rhôde, đã gây nên một cú sốc lớn đối với đời sống tâm linh và văn hóa của dân tộc ta khi đó… Họ mang mặc cảm tự cao cho rằng Cơ Đốc giáo là tôn giáo hoàn vũ, cao siêu hơn bất cứ tôn giáo nào khác … Do đó, họ coi các tôn giáo truyền thống bản địa đều là thấp kém, man muội cần phải xóa sạch để thay thế bằng Cơ Đốc giáo."[21] Giáo sư Vũ Minh Giang đồng ý rằng việc hạ thấp và bôi xấu một số tôn giáo chủ đạo ở Việt Nam thế kỷ 17 là một hạn chế của Alexandre de Rhodes, nhưng điều này cần phải đặt trong bối cảnh truyền giáo đặc trưng ở thế kỷ 17 khi các giáo sĩ đề cao tôn giáo mình và làm giảm vị thế các tôn giáo khác để truyền giáo. Có thể phê phán mặt hạn chế của ông, nhưng cần tiếp cận vấn đề "một cách toàn diện và khách quan, thay vì chỉ xoáy vào một mặt nhất định và đẩy tới mức cực đoan."[22] Tác giả Mặc Giao nhận định dù có những tài năng về hội nhập văn hóa Việt Nam, giáo sĩ de Rhodes có những sai lầm khi nhận xét về một số tôn giáo có trước đó tại Việt Nam. Linh mục Trần Thái Đỉnh cho rằng de Rhodes "hoặc vì không hiểu, hoặc vì muốn xuyên tạc" đã không thấy rằng hai thuyết vô thần và thờ ngẫu tượng "có thể chỉ là hai hình thức bị bóp méo của Tiểu Thừa và Đại Thừa". Mặc Giao phỏng định rằng những sai lầm trầm trọng của de Rhodes về Phật giáo xuất phát từ tâm trạng truyền giáo hăng say quá độ trong khi "không cần tìm hiểu tường tận, chỉ cần dựa vào một số chi tiết để đả phá, nhằm mục đích làm sáng tỏ đạo của mình."[16] Theo tác giả Bùi Kim Phong, de Rhodes chú trọng tìm hiểu thực hành tôn giáo hằng ngày của dân chúng thay vì những văn bản lý thuyết truyền thống của các tôn giáo này; có khi ông "thiếu hiểu biết về lý thuyết của niềm tin nơi các tôn giáo này, nhưng lại hiểu sâu rộng về cách thể hiện niềm tin" của người dân thế lỷ 17. Phản bác mạnh mẽ những điều mà mình cho là sai lầm, de Rhodes cũng xác định những yếu tố của sự thật và thiện hảo trong các tôn giáo này. Ông đánh giá cao những điều tốt trong nghi thức và phong tục tôn giáo địa phương, khuyên giáo dân tôn trọng, và ông sửa đổi cho mang tính chất Công giáo.[23] KhácNgoài cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La đã được Kho Tàng trữ của Thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha scan và đưa lên mạng Internet (xem tại đây), còn có bộ các tác phẩm khác trong ấn bản đầu tiên ở thập niên 1650 mà Giáo sĩ Đắc-Lộ viết bằng tiếng Latin, tiếng Ý và tiếng Pháp có thể tìm thấy tại Thư viện Maurits Sabbe Lưu trữ 2007-09-28 tại Wayback Machine của Đại học Công giáo tại Louvain (Université catholique de Louvain) tại Bỉ. Ngoài ra, có thêm một số ấn bản hoặc tái ấn bản cũng được tìm ra trong cơ sở dữ liệu PORBASE Lưu trữ 2007-09-27 tại Wayback Machine của Liên hiệp các thư viện ở Bồ Đào Nha. Tem tưởng niệm Alexandre de Rhodes phát hành thời Việt Nam Cộng hòa Mặc dù chữ Quốc ngữ đã ra đời từ giữa thế kỷ 17, nhưng các văn phẩm Công giáo tại Việt Nam trong hơn 200 năm sau đó chủ yếu được viết bằng chữ Nôm, chữ Hán hoặc tiếng Latin.[24] Khi người Pháp củng cố nền cai trị tại Việt Nam thì chữ Quốc ngữ được đặt làm một văn tự chính thức trên toàn Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Chữ Quốc ngữ được các trí thức và phong trào yêu nước cổ vũ để phổ biến tư tưởng canh tân và tinh thần độc lập.[25][26][27][28][29] Do hạn chế về tài liệu và với các mục đích khác nhau trong thời Pháp thuộc mà cả người Pháp và nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh[30] đã ca tụng Alexandre de Rhodes như là người sáng tạo nên chữ Quốc ngữ. Sau này, nhờ tiếp cận và nghiên cứu tư liệu gốc, các học giả thời Việt Nam Cộng hòa như Đỗ Quang Chính, Thanh Lãng, Nguyễn Khắc Xuyên, Lê Ngọc Trụ bắt đầu minh định rằng chữ Quốc ngữ là một thành tựu tập thể của các tu sĩ Dòng Tên tại Việt Nam. Việc ngày nay lại vẫn đặt câu hỏi ai đã tạo ra chữ Quốc ngữ là "đang đi thụt lùi".[31] Năm 1941, Hội Trí Tri cùng với Hội Truyền bá Quốc ngữ đã quyên góp để dựng một nhà bia kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 350 của giáo sĩ Đắc Lộ ở gần bên bờ hồ Gươm cạnh Đền Bà Kiệu. Tấm bia đá đến năm 1957 thì bị gỡ bỏ và mất tích đến năm 1992 thì mới tìm lại được; hiện tấm bia do Sở Văn hóa Hà Nội lưu giữ.[32] Năm 1943 chính quyền thuộc địa Đông Dương phát hành con tem 30 xu để tôn vinh những đóng góp của ông trong quá trình phát triển chữ Quốc ngữ. Thời kỳ Việt Nam Cộng hòa cũng phát hành một bộ bốn con tem kỷ niệm 300 năm ngày mất của ông, nhưng ra trễ 1 năm (phát hành ngày 5 tháng 11 năm 1961). Tên ông được đặt cho một trường trung học và một con đường ở Sài Gòn gần Dinh Độc Lập. Con đường mang tên ông bị đổi thành Thái Văn Lung năm 1985; vào năm 1995, sau một hội thảo chính thức của Hội Khoa học Lịch sử,[33] con đường này lấy lại tên Alexandre de Rhodes cho đến nay.[10][34] Ngày 5 tháng 11 năm 2018, kỷ niệm 358 năm ngày mất của Alexandre de Rhodes, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Tiến sĩ Khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu cùng 17 người Việt Nam là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, doanh nhân, và những người quan tâm đến việc bảo tồn chữ Quốc ngữ, đã khánh thành 3 tấm bia tri ân đặt quanh mộ ông tại Nghĩa trang Armenia, thành phố Isfahan, Iran. Buổi lễ còn có sự tham dự của giới chức tôn giáo và dân sự thành phố. Trên bia đá có ghi dòng chữ tri ân bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Ba Tư.[35]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Alexandre_de_Rhodes&oldid=68227303” |