Chức năng, nhiệm vụ ngân hàng thương mại

81.2. Nhiệm vụ, chức năng của ngân hàng trong quá trình phát triển đất nước: 1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của NHNN VN:Nhiệm vụ cơ bản của NHNN nhằm duy trì ổn định giá cả, tăng sự ổn định trong hệ thống tài chính, tức là ổn định nền kinh tế.Chức năng của NHNN: NHNN thực hiện chức năng của mình, vừa với tư cách là một bộ máy của chính phủ, cơquan tham mưu cho Chính phủ trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng , vừa với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng. Do đó NHNN VN có các chức năng như sau:- Phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ: đây là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của NHTW, thực hiện chức năng này có tác động rất lớn đến tình hình tài chính, tiền tệ của quốc gia.- Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng: NHTW không trực tiếp giao dịch với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế và cá nhân mà chỉ giao dịch với các NHTM, các tổ chức tíndụng. Thực hiện chức năng này bao gồm các hoạt động sau: + Mở tài khoản và tiếp nhận dự trữ tiền của các NHTM và các TCTD.+ Tiếp vốn cho các NHTM và các TCTD bằng nhiều hình thức như chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay bắt buộc trong thanh toán bù trừ.+ Tổ chức và thực hiện hệ thống thanh toán bù trừ giữa các NHTM. + Tổ chức điều hành hoạt động thị trường mở, thị trường liên ngân hàng.+ Kiểm sốt tín dụng đối với các NHTM bằng nhiếu biện pháp và công cụ khác nhau…

1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTM VN:

Nhiệm vụ của NHTM: Nhiệm vụ cơ bản nhất của NHTM đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa cánhân và tổ chức, “hút vốn” từ nơi nhàn rỗi và “bơm vào” nơi khan hiếm. Chức năng của NHTM:- Chức năng trung gian tín dụng: đây là chức năng đặc trưng nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động cầunối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ người có thể vì lý do gì đó khơng dùng nó một cách sinh lời sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi.- Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán: trong khi làm trung gian thanh toán , ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý cáccơng cụ đó séc, giấy chuyển ngân, thể thanh toán.. đã tiết kiệm rất nhiều cho xã hội về chi phí lưu thơng, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thơng hàng hóa. Việc làm truung9 gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng , không chỉ là trunggian thanh tốn truyền thống như trước mà còn quản lý các phương tiện thanh tốn. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí quan trọng , phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật. Ởcác nước phát triển, phần lớn công tác thanh tốn đều được thực hiện thơng qua séc, phần lớn séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh tốn bù trừ thơng qua NHTM.- Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng cấp 2: quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh tốn trong hệ thống ngân hàng, trongmối liên hệ chặt chẽ với hệ thống NHTW của mỗi nước. Các ngân hàng có khả năng tạo ra tiền khi họ cho vay hoặc đầu tư, tức là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cách cho vay và đầu tư. Khimột ngân hàng cho một cá nhân hay doanh nghiệp vay, nó tạo ra trên sổ sách của nó một khoản tiền gởi dành cho quyền lợi của người đi vay. Tương tự như vậy, khi ngân hàng mua trái phiếu kho bạchay các loại chứng khoán khác cho danh mục của mình thì tiền gởi được tạo ra cho quyền lợi của những người bán chứng khốn này. Nói một cách khái quát, ngân hàng có khả năng tạo ra tiền dướichiêu bài tiền gởi mới bằng cách cấp phát tín dụnd cho khách hàng và đầu tư vào chứng khốn. - Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác: ngày nay, ngân hàng cũng như hàngloạt các định chế tài chính khác đã và đang mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Những chức năng độc quyền của ngân hàng ngày càng thu hẹp, đồng thời ngân hàng từng bước thâm nhập vàochức năng của các tổ chức tài chính khác. Chẳng hạn ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực mơ giới chứng khốn, kinh doanh bất động sản và bảo hiểm…- Chức năng tài trợ ngoại thương và nghiệp vụ ngân hàng quốc tế: một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốctế là tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu và nền thương mại cho các quốc gia. Vai trò của NHTM: vai trò của NHTM được xác định trên cơ sơ chức năng và trên cơ sởcác nhiệm vụ của nó trong từng giai đoạn. Bởi chức năng là tính vốn có của NHTM và vai trò của NHTM cũng chính là sự vận dụng các chức năng đó vào hoạt động thực tiễn. Vai trò của NHTMthay đổi cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội. Với các chức năng đã nêu trên vai trò của NHTM được thể hiện ở 2 mặt:- Thực thi chính sách tiền tệ được hoạch định bởi NHTW. - Góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mơ nền kinh tế bằng nghiệp vụ tạo tiền.

Ngân hàng thương mại (commercial bank ) Theo nghĩa rộng, khái  niệm này dùng để chỉ các định chế tài chính được phép nhận tiền gửi và cho vay dưới nhiều hình thức và điều kiện khác nhau. Theo nghĩa hẹp, khái niệm này dùng để chỉ các ngân hàng tổng hợp thực hiện các nghiệp vụ như nhận tiền gửi viết séc, tiền gửi tiết kiệm cầm cố, cho vay (thường là ngắn hạn), môi giới chứng khoán v,v….

(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)

Chức năng của ngân hàng thương mại

Chức năng trung gian tín dụng

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò như là cầu nối giữa đơn vị thặng dư và đơn vị thâm hụt trong nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay... Nhận tiền gửi và cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại.

Chức năng trung gian thanh toán

Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.

Các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi cả ở trong nước hay ở nước ngoài như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.

Chức năng tạo tiền

Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân hàng thương mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một nhiệm vụ chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.

Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ hay kinh doanh trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với ngân hàng thương mại. Do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.

Học thuật

Ngân hàng thương mại ( commercial ngân hàng ), theo nghĩa rộng, khái niệm này dùng để chỉ những định chế kinh tế tài chính được phép nhận tiền gửi và cho vay dưới nhiều hình thức và điều kiện kèm theo khác nhau .

Ngân hàng thương mại là gì?

Ngân hàng thương mại (commercial bank ) Theo nghĩa rộng, khái  niệm này dùng để chỉ các định chế tài chính được phép nhận tiền gửi và cho vay dưới nhiều hình thức và điều kiện khác nhau. Theo nghĩa hẹp, khái niệm này dùng để chỉ các ngân hàng tổng hợp thực hiện các nghiệp vụ như nhận tiền gửi viết séc, tiền gửi tiết kiệm cầm cố, cho vay (thường là ngắn hạn), môi giới chứng khoán v,v….

(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)

Chức năng của ngân hàng thương mại

Chức năng trung gian tín dụng

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò như là cầu nối giữa đơn vị thặng dư và đơn vị thâm hụt trong nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay… Nhận tiền gửi và cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại.

Xem thêm: Cửa hàng phong thủy ở 350 Xã Đàn, HN | Top Nội Thất

Chức năng trung gian thanh toán

Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.

Xem thêm: Thừa Thiên Huế – Wikipedia tiếng Việt

Các ngân hàng thương mại phân phối cho người mua nhiều phương tiện đi lại giao dịch thanh toán thuận tiện cả ở trong nước hay ở quốc tế như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ giao dịch thanh toán, thẻ tín dụng … Tùy theo nhu yếu, người mua hoàn toàn có thể chọn cho mình phương pháp thanh toán giao dịch tương thích. Nhờ đó mà những chủ thể kinh tế tài chính không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán giao dịch dù ở gần hay xa mà họ hoàn toàn có thể sử dụng một phương pháp nào đó để triển khai những khoản thanh toán giao dịch. Do vậy những chủ thể kinh tế tài chính sẽ tiết kiệm ngân sách và chi phí được rất nhiều ngân sách, thời hạn, lại bảo vệ thanh toán giao dịch bảo đảm an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thôi thúc lưu thông sản phẩm & hàng hóa, đẩy nhanh vận tốc giao dịch thanh toán, vận tốc lưu chuyển vốn, từ đó góp thêm phần tăng trưởng kinh tế tài chính .

Chức năng tạo tiền

Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ thực chất của ngân hàng thương mại. Với tiềm năng là tìm kiếm doanh thu như thể một trách nhiệm chính cho sự sống sót và tăng trưởng của mình, những ngân hàng thương mại với nhiệm vụ kinh doanh thương mại mang tính đặc trưng của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế tài chính .
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng thanh toán và chức năng giao dịch thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng thanh toán, ngân hàng sử dụng số vốn kêu gọi được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được người mua sử dụng để mua sản phẩm & hàng hóa, thanh toán giao dịch dịch vụ hay kinh doanh thương mại trong khi số dư trên thông tin tài khoản tiền gửi giao dịch thanh toán của người mua vẫn được coi là một bộ phận của tiền thanh toán giao dịch, được họ sử dụng để mua sản phẩm & hàng hóa, giao dịch thanh toán dịch vụ … Với chức năng này, mạng lưới hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện đi lại thanh toán giao dịch trong nền kinh tế tài chính, cung ứng nhu yếu giao dịch thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng TW đã vận dụng so với ngân hàng thương mại. Do vậy ngân hàng TW hoàn toàn có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế tài chính lớn .