Cơ sở tâm lý của quá trình dạy học đại học là gì

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ GIẢNG VIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC PGS.TS Phùng Thị Hằng I. Bản chất và sự hình thành, phát triển tâm lý người 1. Bản chất của tâm lý người Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lý người có bản chất xã hội lịch sử. 1.1. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể Hiện thực khách quan [thực tại khách quan] là tất cả những gì tồn tại ngoài ý thức của con người, độc lập với ý thức của con người và phát triển theo quy luật tự nhiên của nó. Hiện thực khách quan bao gồm cả thế giới tự nhiên và thế giới đồ vật do con người sáng tạo ra, các hiện tượng vật chất và các hiện tượng tinh thần. Hiện thực khách quan tác động vào các giác quan, hệ thần kinh và não. Não hoạt động tiếp nhận, in lại, giữ lại những hình ảnh, dấu vết của hiện thực. Quá trình “sao”, “chụp” lại các kích thích từ hiện thực này chính là hoạt động phản ánh hiện thực khách quan của não. Kết quả của hoạt động này là những hình ảnh, dấu vết của hiện thực khách quan được in lại, lưu lại ở trong não, hình ảnh ấy được gọi là hình ảnh tâm lý. Hiện thực khách quan là nguồn gốc làm nảy sinh ra hoạt động tâm lý và tâm lý. Hiện thực khách quan là cái có trước, cái bên ngoài còn tâm lý là cái có sau. Tâm lý chỉ nảy sinh khi có sự tác động qua lại giữa hiện thực khách quan và não. Hiện thực khách quan bên ngoài quyết định tâm lý người cả về nguồn gốc nảy sinh lẫn nội dung phản ánh. Do đó, có thể nói: Hiện thực khách quan vừa là nguồn gốc, vừa là nội dung của tâm lý người. Thế giới khách quan tồn tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian và 1 luôn vận động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi vật chất đang vận động. Có thể nói: Phản ánh là quá trình tác động qua lại và để lại dấu vết trên nhau giữa các hệ thống vật chất [ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động]. Phản ánh như một phương thức tồn tại của thế giới, nó cũng diễn ra từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hóa cho nhau: Từ phản ánh cơ, vật lý, hoá học đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý. Trong các loại phản ánh thì phản ánh tâm lý ở người là một loại phản ánh đặc biệt, phản ánh cao nhất. Vì: - Phản ánh tâm lý là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần kinh, bộ não người - tổ chức cao nhất của vật chất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có khả năng nhận tác động từ hiện thực khách quan, tạo ra hình ảnh tâm lý [hình ảnh tinh thần] chứa đựng trong các “vết vật chất”, đó là các quá trình sinh lý, sinh hoá diễn ra trong hệ thần kinh và não bộ. - Phản ánh tâm lý tạo ra “hình ảnh tâm lý”, đó là “bản sao” hay “bản chụp” về thế giới. Theo Karl Marx thì: “Tinh thần, tư tưởng, tâm lý... chẳng qua là vật chất ở bên ngoài được chuyển vào trong đầu óc và biến đổi trong đó mà có”. Song hình ảnh tâm lý khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật lý, hoá học và sinh học ở chỗ: + Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động và sáng tạo. Ví dụ: hình ảnh tâm lý về cuốn sách trong đầu một người biết chữ khác xa về chất so với hình ảnh vật lý của chính cuốn sách đó ở trong gương. + Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm mầu sắc cá nhân của người [hay nhóm người] mang hình ảnh tâm lý đó. Hay nói cách khác, hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan. Nghĩa là, mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa toàn bộ vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống, nhu cầu, hứng thú, năng lực... của mình vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan. Vì vậy có thể nói, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lý thông qua “lăng kính chủ quan” của mình. Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý ở người thể hiện ở chỗ: 2 Cùng một sự tác động của hiện thực khách quan nhưng ở các chủ thể khác nhau sẽ cho các hình ảnh tâm lý với những mức độ và sắc thái khác nhau. Cùng một sự tác động của hiện thực khách quan đến cùng một chủ thể nhưng ở những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau sẽ cho ta các hình ảnh tâm lý với những mức độ và sắc thái khác nhau. Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất. Cuối cùng, thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực. Do đâu mà tâm lý của người này khác tâm lý của người kia? Tâm lý của người này khác tâm lý của người kia là do: Mỗi người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não; mỗi người có hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục khác nhau; tính tích cực hoạt động và giao tiếp của mỗi người khác nhau... 1.2. Bản chất xã hội - lịch sử của tâm lý người Tâm lý người khác xa về chất so với tâm lý của một số loài động vật cấp cao ở chỗ: Tâm lý người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử. - Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan [thế giới tự nhiên và xã hội], trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định, ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được xã hội hoá. Các mối quan hệ xã hội như: quan hệ kinh tế xã hội, quan hệ chính trị, đạo đức, pháp quyền... đặc biệt là các mối quan hệ ngườingười quyết định bản chất con người và quyết định bản chất tâm lý người. Karl Marx nhận định: “Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Thực tế cho thấy, nếu con người thoát ly khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ người - người thì tâm lý người sẽ mất bản tính người. - Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội. Con người là chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo trong nhận thức, hoạt động và giao tiếp. Do đó, tâm lý người là sản phẩm của con người với tư cách là chủ thể xã hội. Tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của con người. - Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hoá xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo 3 dục giữ vai trò chủ đạo, hoạt động và giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định. - Tâm lý của mỗi người hình thành, biến đổi và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc, lịch sử cộng đồng... và chịu sự chế ước của nó. Từ việc nghiên cứu bản chất của tâm lý người, có thể rút ra kết luận sư phạm như sau: - Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan, trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định, vì thế khi nghiên cứu, hình thành và cải tạo tâm lý con người phải nghiên cứu hoàn cảnh, môi trường sống, nền văn hóa xã hội và các mối quan hệ xã hội của con người. - Tâm lý ngươi mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học, giáo dục phải chú ý nguyên tắc sát đối tượng, đảm bảo tính đồng loạt và tính cá thể trong dạy học. - Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức tốt các hoạt động chủ đạo cũng như giao tiếp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học. 2. Hoạt động, giao tiếp với sự hình thành và phát triển tâm lý Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp: - Thông qua hoạt động, con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử, đồng thời “ xuất tâm lực lượng bản chất” của mình ra bên ngoài, tạo nên sự ảnh hưởng đến người khác, đến các mối quan hệ xã hội. - Thông qua giao tiếp, con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội để phát triển tâm lý; đồng thời nhận thức về người khác và tự đánh giá bản thân. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan, trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định. Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội. Có thể tổng quát về sự hình thành và phát triển tâm lý người thông qua sơ đồ dưới đây: 4 Xã hội [các quan hệ xã hội] Giao tiếp Con người Đối tượng giao tiếp [Tâm lý-nhân cách] Chủ thể HĐ- GT Hoạt động Đối tượng hoạt động II. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi của thanh niên sinh viên 1. Đặc điểm phát triển thể chất Sinh viên đã trưởng thành về thể chất, có sự phát triển tương đối hoàn thiện về sinh lý. Hệ xương, hệ cơ phát triển ổn định, đồng đều, cân đối. Các tuyến nội tiết phát triển ổn định. Có sự tăng trưởng của các hoóc môn nam và nữ. Cấu trúc và chức năng của hệ thần kinh được hoàn thiện. Các tố chất về thể lực như sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt phát triển mạnh. Những đặc điểm về thể chất nêu trên tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này. 2. Những đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên 2.1. Sự phát triển của hoạt động nhận thức Hoạt động nhận thức trong học tập của sinh viên diễn ra ở cường độ cao. Các quá trình nhận thức như: tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng … đều được huy động tối đa để đáp ứng yêu cầu học tập theo phương thức tự nghiên cứu. Đối tượng học của sinh viên không phải chỉ là những tri thức khoa học hấp dẫn mà còn bao gồm rất nhiều tri thức khoa học vừa khó, vừa khô khan, nhưng sinh viên đều phải tập trung lĩnh hội và tham gia vào bài giảng nên tri giác có chủ định, chú ý có chủ định được huy động là chủ yếu. 5 Hầu hết các tri thức khoa học ở đại học đều đòi hỏi phải ghi nhớ ý nghĩa, vì thế sinh viên phải biết tổ chức ghi nhớ để có trí nhớ dài hạn. Sinh viên có những phẩm chất tư duy tốt như: óc phân tích, tổng hợp, khả năng phê phán, tính độc lập, khả năng khái quát vấn đề; đồng thời có sự sáng tạo trong vận dụng tri thức sao cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Khả năng tưởng tượng của sinh viên được phát triển ở mức độ cao; sinh viên có khả năng xây dựng những hình ảnh mới, độc đáo mà học sinh phổ thông chưa có được, nhờ đó họ có thể lĩnh hội tốt các tri thức có tính chất trừu tượng ở đại học 2.2. Sự phát triển về nhân cách a] Đời sống tình cảm Sinh viên đã trưởng thành về tâm, sinh lý nên đời sống tình cảm rất phong phú, sâu sắc và bền vững. Tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên phát triển đến mức độ tích cực nhất Tình cảm trí tuệ của sinh viên biểu hiện rõ qua thái độ tích cực đối với việc chiếm lĩnh tri thức khoa học. Nhiều sinh viên chủ động tìm tòi, khám phá các phương pháp học tập phù hợp với điều kiện và yêu cầu môn học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ học tập. Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của sinh viên phát triển có chiều sâu. Sinh viên có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở những gì mà họ yêu thích. Tình bạn của sinh viên phát triển mạnh và có chiều sâu. Tình bạn góp phần làm cho nhân cách của sinh viên phát triển mạnh. Tình yêu nam nữ của sinh viên cũng rất phát triển. Tình yêu sinh viên thường là những mối tình đẹp, nhưng vẫn còn tồn tại một số lệch lạc trong quan hệ tình bạn khác giới và tình yêu. Trí tuệ cảm xúc của sinh viên đã phát triển. Sinh viên có những kinh nghiệm nhất định về các lĩnh vực tình cảm; có khả năng kiềm chế bản thân trước những ham muốn tiêu cực, biết phân tích và đánh giá các hiện tượng trong đời sống xã hội và của bản thân. b] Sự phát triển tự ý thức 6 * Các mặt biểu hiện của tự ý thức: Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau: - Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ dáng vẻ bề ngoài, vị trí, các mối quan hệ xã hội đến phẩm chất và năng lực cá nhân. - Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá [hài lòng hoặc không hài lòng, tự cao hoặc tự ti …]. - Xác định mục đích phấn đấu, tự điều khiển và điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác. - Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân. * Đặc điểm tự ý thức của sinh viên: Do sự trưởng thành về lứa tuổi, do sự thay đổi vị thế xã hội, sinh viên có khả năng đánh giá khách quan về bản thân; có khả năng tự điều chỉnh các hoạt động tâm lý như nhận thức, thái độ và hành vi để thích ứng được với các hoạt động học tập, rèn luyện, hoạt động tập thể ở trường đại học. Sinh viên tự thu thập và xử lý các thông tin về bản thân để tự điều chỉnh mình. Sinh viên tự nhìn nhận lại bản thân, so sánh với những nhận xét của chính mình về bản thân, từ đó nảy sinh nhu cầu tự hoàn thiện. Sự phát triển tự ý thức của sinh viên là biểu hiện của sự phát triển nhân cách người lao động trong tương lai. Sự đánh giá khách quan về bản thân giúp sinh viên nhận thức rõ những điểm mạnh, điểm yếu của mình để xác định mức độ đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp. c] Sự phát triển định hướng giá trị của sinh viên Vào học đại học nghĩa là sinh viên đã lựa chọn giá trị là trình độ học vấn cao, được lao động ở trình độ cao, được đãi ngộ hơn các tầng lớp lao động khác trong xã hội. Tuy nhiên, lý do chọn nghề ở những sinh viên khác nhau có sự khác nhau. Do tác động của kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập, các giá trị truyền thống ít nhiều thay đổi. Sinh viên hướng vào bản thân nhiều hơn, coi trọng cá nhân hơn, đồng thời cũng chấp nhận thách thức của thực tế, sẵn sàng hợp tác những cũng chấp nhận cạnh tranh. 7 Sinh viên là lớp người trẻ, có vốn kiến thức khoa học cơ bản và đang được trang bị những kiến thức thuộc lĩnh vực chuyên môn nhất định. Sinh viên có khát vọng vươn lên nhưng cũng bộc lộ tính bồng bột của tuổi trẻ nên việc thực hiện các dự định cho tương lai không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi. 2.3. Xu hướng và các kiểu nhân cách sinh viên a] Xu hướng phát triển nhân cách sinh viên Sinh viên là người đang học nghề nên xu hướng phát triển nhân cách của sinh viên là xung hướng phát triển nhân cách nghề nghiệp. Mô hình nhân cách mà sinh viên hướng tới là nhân cách của người lao động có trình độ cao trong lĩnh vực chuyên môn mà sinh viên đã chọn. Sinh viên tiếp tục nhận thức rõ hơn, hiểu kỹ hơn về nghề nghiệp và các yêu cầu của nghề nghiệp đã chọn, đồng thời dần dần hình thành tình cảm nghề nghiệp. Xu hướng nghề nghiệp dần được ổn định và từng bước hình thành phẩm chất, năng lực cần thiết của nghề. Tình cảm đạo đức, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng phát triển mạnh; tình cảm bạn bè, tình yêu nam nữ phát triển và có tính chất bền vững. Do nhận thức về nghề nghiệp đầy đủ hơn nên sinh viên đã đặt kỳ vọng về nghề nghiệp tương lai. Sinh viên tự đối chiếu bản thân với yêu cầu của xã hội để hoàn thiện mình nhằm đáp ứng các yêu cầu đó. Sự phát triển nhân cách sinh viên diễn ra theo hướng tăng dần khả năng đáp ứng các yêu cầu về phẩm chất và năng lực của nghề đã chọn từ năm đầu đến năm cuối. b] Các kiểu nhân cách của sinh viên Dựa vào thái độ của sinh viên đối với hoạt động học tập và các hoạt động chính trị xã hội, người ta phân chia 6 kiểu nhân cách sinh viên như sau: - Kiểu 1: Là những sinh viên học tốt tất cả các môn cơ sở, cơ bản và chuyên ngành; xác định mục đích học tập rõ ràng; tích cực tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học; tích cực trong các hoạt động chính trị xã hội. Đây là những sinh viên toàn năng, thường được bầu vào các vị trí lãnh đạo tập thể sinh viên. 8 - Kiểu 2: Là những sinh viên học khá; học tốt một số môn, thường là những môn chuyên ngành; tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội; gắn bó với tập thể lớp bằng các hoạt động học tập và rèn luyện nghề nghiệp. - Kiểu 3: Là những sinh viên đạt kết quả xuất sắc trong học tập; hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực; say mê học tập và nghiên cứu khoa học; có thể có một năng khiếu nào đó, nhưng không hứng thú tham gia các hoạt động chính trị xã hội. - Kiểu 4: Là những sinh viên có kết quả học tập trung bình, có thể là khá; không hẳn là thiếu chăm chỉ nhưng vì quan tâm và dành nhiều thời gian cho các hoạt động chính trị xã hội nên ảnh hưởng đến kết quả học tập; gắn bó với tập thể bằng các hoạt động xã hội hơn là hoạt động học tập. - Kiểu 5: Là những sinh viên học trung bình hoặc yếu hơn một chút; không tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn như nghiên cứu khoa học, ít tranh luận xêmina; không tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội; không gắn bó chặt chẽ với tập thể. - Kiểu 6: Là những sinh viên có học lực yếu; không tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn như nghiên cứu khoa học; không tích cực trong các hoạt động chính trị xã hội; ham chơi, thích tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí hơn là học. III. Cơ sở tâm lý học của quá trình dạy học và giáo dục sinh viên 1. Cơ sở TLH của hoạt động dạy học 1.1. Hoạt động dạy học của giảng viên Hoạt động dạy học của giảng viên thực chất là sự tổ chức và điều khiển một cách tối ưu hoạt động học của sinh viên. Nhiệm vụ quan trọng của người giảng viên là tích cực hóa hoạt động nhận thức của sinh viên thông qua việc tìm kiếm các phương pháp dạy học tích cực. Giảng viên phải biết cách tổ chức, giao bài tập hoặc vấn đề để sinh viên tự tìm tòi, khám phá. Hoạt động học của sinh viên có tác động không nhỏ đến hoạt động dạy của giảng viên. Giảng viên có thể lựa chọn phương pháp dạy học tích cực nhưng nếu sinh viên không hưởng ứng thì hiệu quả dạy học hạn chế.Vì vậy, cần có sự 9 tương thích giữa hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên. Sinh viên phải hoàn thành nhiệm vụ học tập, độc lập giải quyết các bài tập, các vấn đề mà giảng viên giao cho theo kế hoạch bài giảng. Như vậy, hoạt động dạy và hoạt động học cần được liên kết chặt chẽ, thống nhất với nhau qua nội dung và phương pháp dạy học. Hoạt động dạy ở đại học cần đạt được các giá trị cơ bản sau đây: - Dạy sinh viên muốn học. Nghĩa là phải hình thành động cơ học tập tích cực ở sinh viên. Người giảng viên cần giúp sinh viên nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của những tri thức được lĩnh hội; tạo tình huống có vấn đề để khơi dậy nhu cầu nhận thức ở sinh viên … - Dạy sinh viên biết học. Nghĩa là phải hình thành phương pháp học tập tích cực cho sinh viên. Giảng viên phải tổ chức tốt hoạt động học tập cho sinh viên, giúp sinh viên tự mình chiếm lĩnh tri thức mới, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội. - Dạy sinh viên tích cực, kiên trì học. Nghĩa là, giúp sinh viên phát huy tính độc lập, sự kiên trì, sự nỗ lực ý chí trong quá trình lĩnh hội trí thức. Giảng viên giao nhiệm vụ học tập phù hợp với trình độ nhận thức của sinh viên; có sự kiểm tra, đánh giá kịp thời và có tác dụng khích lệ… - Dạy sinh viên học tập có kết quả. Nghĩa là giúp sinh viên quan tâm đến chất lượng học tập. Các bài tập, các vấn đề mà giảng viên giao cho sinh viên chuẩn bị, tự lập giải quyết phải được hoàn thành theo kế hoạch bài giảng và đáp ứng các yêu cầu đặt ra. 1.2. Hoạt động học của sinh viên Đối tượng của hoạt động học ở đại học là tri thức khoa học và các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp mà người sinh viên cần có. Ngoài việc lĩnh hội các tri thức khoa học, sinh viên có thể sáng tạo hoặc góp phần sáng tạo các tri thức mới dưới sự hướng dẫn của giảng viên. 10 Mục đích của hoạt động học ở sinh viên không chỉ hướng vào việc lĩnh hội tri thức mà còn hướng vào làm thay đổi chính bản thân sinh viên. Hoạt động học của sinh viên gắn liền với hoạt động nghiên cứu khoa học và không tách rời hoạt động nghề nghiệp. Hoạt động học của sinh viên diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của giảng viên và nằm trong khuôn khổ của chương trình đào tạo thuộc một chuyên ngành nhất định. Hoạt động học của sinh viên chủ yếu hướng vào tiếp thu những tri thức của chính bản thân hoạt động học – đó là phương pháp học. Vấn đề cơ bản ở đại học là học phương pháp. Nét đặc trưng trong hoạt động học tập của sinh viên là quá trình nhận thức ở cường độ cao mà trọng tâm là quá trình tư duy tìm tòi, khám phá. Hoạt động học của sinh viên đòi hỏi sự sáng tạo cao, bởi lẽ những tri thức sinh viên cần lĩnh hội vượt ra ngoài giáo trình, bài giảng mà giảng viên cung cấp. Sinh viên phải hoàn toàn tự quyết định kế hoạch học tập của mình sao cho trong một thời gian nhất định họ phải đáp ứng các yêu cầu của quá trình đào tạo. Hoạt động học của sinh viên diễn ra phức tạp theo nhiều phương thức khác nhau. Mỗi phương thức tạo ra một kiểu học tập tương đối riêng biệt. Các kiểu học của sinh viên được thể hiện ở 5 kiểu tổng quát như sau: - Kiểu 1: Việc học tập có tính chất thụ động, bắt chước, sao chép, ít tính chủ định. Cách học này khuyến khích việc sử dụng cách dạy theo khuôn mẫu, áp đặt, buộc sinh viên phải chấp nhận các tri thức mà giảng viên cung cấp. - Kiểu 2: Học theo nguyên tắc phát hiện – tìm tòi. Đây là kiểu học tập được thực hiện bằng các hành động cảm tính rồi tiến đến các hành động lý tính, tức là hành động trí tuệ. Sinh viên tự mình phát hiện, khai thác, tích lũy và xử lý các thông tin thu nhận được từ đó hình thành các khái niệm khoa học. Tương thích với kiểu học này là phương pháp dạy học có chức năng tổ chức, định hướng, tạo môi trường, điều kiện để sinh viên làm việc [phương pháp kiến tạo – tìm tòi]. - Kiểu 3: Học tập bằng cảm xúc, rung cảm. Đó là cách học bằng rung cảm, có sự đồng cảm giữa con người với nhau. Nội dung chủ yếu của quá trình học tập chính là những trải nghiệm thực tế của sinh viên. Cá nhân và nhóm sinh viên 11 tham gia vào các quan hệ, tình huống nhất định, từ đó hợp tác, chia sẻ với nhau những kiến thức, kinh nghiệm, đánh giá và trao đổi ý tưởng. Phù hợp với kiểu học này là cách dạy động viên – tham gia, khuyến khích – tham gia. Giảng viên có thể sử dụng các phương pháp dạy học phổ biến như phương pháp động não, nêu vấn đề, thảo luận nhóm … - Kiểu 4: Học dựa vào kinh nghiệm nhận thức và hoạt động trí tuệ của mỗi cá nhân sinh viên. Ở kiểu học này, những vấn đề trong nội dung học tập trở thành nhân tố cơ bản của các tình huống dạy học. Những tình huống đó trở thành môi trường học tập trực tiếp của sinh viên. Tương ứng với kiểu học này là cách dạy học nêu vấn đề. Giảng viên sử dụng các phương pháp dạy học như phương pháp động não, nêu vấn đề, thảo luận nhóm … - Kiểu 5: Kiểu học hỗn hợp. Với kiểu học này sinh viên phải sử dụng đa dạng các phương pháp học tập. Điều đó đòi hỏi giảng viên phải sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học, có phương án kết hợp các kiểu phương pháp sao cho phù hợp với đặc điểm tâm lý của sinh viên, 1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Sinh viên nghiên cứu khoa học chủ yếu phục vụ cho mục đích học tập. Tuy nhiên thông qua hoạt động này sinh viên được rèn luyện một số phẩm chất và kỹ năng của người làm khoa học như: thế giới quan khoa học, các kỹ năng tìm tòi và khai thác tài liệu … Một năng lực quan trọng được hình thành ở sinh viên đó là năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, trong các hoạt động xã hội. Các đề tài nghiên cứu của sinh viên chủ yếu hướng vào các nội dung dạy học và giáo dục học sinh. Qua việc nghiên cứu các đề tài như thế sinh viên sư phạm vừa hiểu biết thêm các yêu cầu dạy học và giáo dục học sinh sau này, vừa biết cách phát hiện và giải quyết vấn đề trong thực tiễn giáo dục. Việc nghiên cứu khoa học trong trường đại học còn giúp sinh viên phát triển tính tích cực hoạt động trí tuệ, biết nhìn vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau để có thể nắm vững các tri thức khoa học một cách sáng tạo. 12 Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên có thể được tổ chức rất sớm từ khi các em mới vào trường và được diễn ra dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau: bài tập lớn, thu hoạch môn học, báo cáo chuyên đề, khóa luận tốt nghiệp … Việc công bố kết quả nghiên cứu của sinh viên được thực hiện thông qua các hình thức như: Hội nghị khoa học của sinh viên, các cuộc thi do Bộ Giáo dục & Đào tạo tổ chức … 1.4. Dạy học và sự phát triển trí tuệ của sinh viên a] Mối quan hệ giữa dạy học và sự phát triển trí tuệ của sinh viên Trong quá trình dạy học, để đáp ứng được yêu cầu của chương trình dạy học ngày càng cao theo từng môn học, năm học, khối lượng và chất lượng hệ thống tri thức của sinh viên ngày càng được nâng cao; năng lực hoạt động trí tuệ của sinh viên ngày càng phát triển. Khi có các kỹ năng, kỹ xảo hành động trí tuệ, sinh viên có thể vận dụng chúng trong các tình huống khác nhau của hoạt động nhận thức, nhờ đó các hành động trí tuệ trở nên mềm dẻo hơn, thuần thục hơn và trở thành phương pháp hoạt động trí tuệ. Ngoài ra, sinh viên còn được phát triển các năng lực khác của trí tuệ như trí nhớ, năng lực quan sát, óc tưởng tượng … Dạy học không chỉ tác động đến sự phát triển năng lực trí tuệ mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tâm lý, nhân cách của sinh viên như nhu cầu, hứng thú, lòng ham hiểu biết, tính kiên trì vượt khó … Khi trí tuệ và các chức năng tâm lý khác được phát triển, chúng tác động trở lại quá trình dạy học, quá trình lĩnh hội tri thức của sinh viên. Càng về sau khả năng tự học của sinh viên càng được phát triển, sinh viên đòi hỏi cao hơn ở giảng viên, vì thế giảng viên phải liên tục cập nhật thông tin và đổi mới phương pháp dạy học. b] Mối quan hệ giữa phương pháp giảng dạy và các loại hành động trong hoạt động học tập của sinh viên Tùy theo cách giảng dạy mà có cách học khác nhau của sinh viên: 13 Trường hợp thứ nhất: Người sinh viên coi mình chỉ là đối tượng tác động hình thành của các nhà sư phạm, nên họ sẽ thụ động trong việc lĩnh hội trí thức. Trong trường hợp này, người giảng viên sẽ chỉ dùng các phương pháp thông báo, mô tả, giải thích. Trường hợp thứ hai: Người sinh viên xem mình là chủ thể của những hứng thú và mục đích riêng nên họ say mê, độc lập tìm tòi tri thức nhằm thỏa mãn những nhu cầu, hứng thú của bản thân. Học tập mang tính sáng tạo nhưng có tính chất tự phát và thiếu tính hệ thống của tri thức. Do vậy các phương pháp giảng dạy là những phương pháp kích thích tính ham hiểu biết, tính ngạc nhiên, tính tò mò … của sinh viên. Trường hợp thứ ba: Người sinh viên thể hiện mình vừa là chủ thể vừa là khách thể của hoạt động học tập. Họ thực hiện việc tìm tòi và vận dụng các thông tin một cách có phương hướng. Nhà sư phạm tổ chức các hành động của sinh viên xuất phát từ yêu cầu bên ngoài, từ các khả năng và mục đích của xã hội. Các phương pháp được vận dụng và đặt ra các vấn đề, các nhiệm vụ là việc thảo luận, tranh luận. c] Quy trình hình thành khái niệm cho sinh viên Để hình thành một khái niệm cho sinh viên, giảng viên phải lưu ý thực hiện các bước sau: Bước 1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức ở sinh viên, giúp sinh viên thực sự trở thành chủ thể của hoạt động nhận thức. Biện pháp: Tạo tình huống sư phạm, từ đó làm nảy sinh trong ý thức của sinh viên một tình huống có vấn đề. Bước 2: Tổ chức cho sinh viên hành động để làm bộc lộ các thuộc tính bản chất của khái niệm ra bên ngoài để nhận biết; hoặc tạo các cứ liệu cần thiết để xây dựng khái niệm mới. Bước 3: Hướng dẫn sinh viên tự mình vạch ra những nét bản chất của khái niệm. Bước 4: Hệ thống hóa khái niệm. Bước 5: Vận dụng khái niệm vừa nắm được. 14 d] Các điều kiện sư phạm của việc hình thành động cơ học tập tích cực cho sinh viên Trong quá trình dạy học ở đại học, để sinh viên thực sự trở thành chủ thể của hoạt động nhận thức, việc hình thành động cơ học tập tích cực cho sinh viên có ý nghĩa quan trọng. Để làm được điều này, người giảng viên cần lưu ý những điều kiện sư phạm sau đây: - Giúp sinh viên ý thức rõ ràng về mục đích gần và mục đích cuối cùng của hoạt động học tập; phân tích rõ ý nghĩa của nghề nghiệp mà sinh viên đã chọn, những yêu cầu của nghề nghiệp đối với nhân cách. - Giúp sinh viên hiểu rõ về ý nghĩa lý luận và thực tiễn của các tri thức được lĩnh hội; tạo cho sinh viên hứng thú với các vấn đề lý luận khoa học, khao khát tiếp nhận tri thức mới. - Cần lưu ý hình thức xúc cảm của các thông tin khoa học được trình bày. Mở rộng nội dung và cái mới của tài liệu học tập; đưa những yếu tố sáng tạo, có tính chất nghiên cứu vào trong hoạt động học tập của sinh viên. - Lựa chọn những bài tập phù hợp tạo ra những mâu thuẫn về mặt nhận thức thông tin trong chính bản thân cấu trúc của hoạt động học tập. Duy trì tính ham hiểu biết và “không khí tâm lý nhận thức” trong nhóm học tập của sinh viên. 2. Cơ sở tâm lý học của quá trình giáo dục sinh viên 2.1. Vấn đề giáo dục hướng nghiệp Xu hướng nghề nghiệp là những hiểu biết và tiếp nhận bên trong các mục đích và nhiệm vụ của hoạt động nghề nghiệp có liên quan đến hứng thú, niềm tin, quan điểm và tâm thế đối với hoạt động này. Việc hình thành xu hướng nghề nghiệp của sinh viên diễn ra trong suốt quá trình học tập ở trường đại học. Vào năm thứ nhất, sinh viên chưa có được những phẩm chất nghề nghiệp thuộc một ngành nhất định. Trong quá trình làm quen với hoạt động học tập ở trường đại học, sinh viên dần dần tích lũy được những tri thức chung có liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp mà sinh viên được đào tạo. Đến năm thứ hai, sinh viên đã quen với hầu hết các hình thức giảng dạy và giáo dục ở đại học. Quá trình thích ứng đối với hoạt động học tập về cơ bản đã 15 hoàn thành. Do tích lũy được tri thức chung nên các kỹ năng nghề nghiệp ở sinh viên dần được hình thành. Bước sang năm thứ 3, hứng thú với hoạt động học tập chuyên môn và hoạt động khoa học được phát triển theo chiều sâu của nghề nghiệp đã chọn. Những phẩm chất có liên quan và phù hợp với nghề nghiệp tương lai được phát triển mạnh. Đến năm thứ tư, sinh viên thực tập làm các công việc của người chuyên gia khi đi thực tập ở các cơ sở thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Họ đối chiếu, đánh giá các giá trị có liên quan tới nghề nghiệp, tích cực tìm tòi các thông tin nghề nghiệp và rèn các kỹ năng cần thiết. Toàn bộ nhân cách của họ phát triển sát với mục tiêu đào tạo. Vấn đề hình thành xu hướng nghề nghiệp cho sinh viên có ý nghĩa quan trọng đối với công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường đại học. Bởi lẽ, mặc dù sinh viên đã lựa chọn và học một nghề nhưng sự lựa chọn đó chưa ổn định. Mặt khác khi chọn nghề chưa hẳn sinh viên đã hiểu đầy đủ về nghề được chọn. Mục đích của giáo dục hướng nghiệp là giúp sinh viên yên tâm với nghề đã chọn, có ý thức phấn đấu, rèn luyện các phẩm chất theo yêu cầu nghề nghiệp. Nội dung của hoạt động này là giúp sinh viên hiểu đầy đủ về yêu cầu, xu hướng phát triển nghề nghiệp, nhu cầu của thị trường lao động hiện nay, giúp sinh viên đối chiếu với đặc điểm của bản thân để có biện pháp rèn luyện phù hợp. Để hình thành xu hướng nghề nghiệp cho sinh viên đồng thời cũng chính là để làm tốt công tác giáo dục hướng nghiệp, cần lưu ý một số biện pháp sau: Trước hết phải tác động đến ý thức của sinh viên về mục đích và ý nghĩa nghề nghiệp mà họ đã chọn, uy tín xã hội của nghề, những yêu cầu nghề nghiệp đối với cá nhân. Tổ chức các hoạt động học tập, lao động, xã hội của sinh viên có tính đến các yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp tương lai của họ; trong hoạt động có nội dung nghề nghiệp, giúp sinh viên rèn luyện về phẩm chất và kỹ năng của người chuyên gia theo phân ngành ở đại học. 16 Tích cực hóa việc tự học và tự giáo dục của sinh viên; hình thành ở sinh viên niềm tin và thái độ tích cực đối với nghề nghiệp trong tương lai. Điều này cần được bắt đầu từ các bài học đầu tiên khi sinh viên mới nhập trường. Lưu ý một số điều kiện cơ bản để hình thành xu hướng nghề nghiệp cho sinh viên như: Giúp sinh viên làm quen với chương trình của ngành chuyên môn; nắm được phương pháp tự giáo dục; tổ chức các hoạt động thực tiễn làm nảy sinh nhu cầu nhận thức ở sinh viên; đảm bảo tính hệ thống và liên tục trọng việc tự rèn luyện của bản thân sinh viên; có sự giúp đỡ và kiểm tra kịp thời các hoạt động của sinh viên thông qua đội ngũ cán bộ giảng dạy và các tổ chức đoàn thể … Việc xem xét các đặc điểm nhân cách của sinh viên có vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung, hình thức và phương pháp tác động đến họ nhằm hình thành xu hướng nghề nghiệp của người chuyên gia tương lai trong trường đại học. 2.2. Vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính Sinh viên là lực lượng bắt đầu đủ tuổi kết hôn. Thực tế cho thấy, hiện nay số thanh niên sinh viên có quan hệ tình dục trước hôn nhân có xu hướng tăng. Do đó, đây là một lực lượng cần phải được giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính. Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành ở sinh viên thái độ và hành vi đúng đắn trong quan hệ tình yêu, tình bạn khác giới, biết cách giải quyết các vấn đề liên quan đến tình yêu, tình dục … Nội dung cơ bản của giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính là trang bị cho sinh viên những kiến thức về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản; kiến thức và khả năng phòng tránh các bệnh lây qua đường tình dục … IV. Những yêu cầu về nhân cách của người giảng viên 1. Những yêu cầu đối với người giảng viên với tư cách là nhà sư phạm * Các phẩm chất cần có của giảng viên: Người giảng viên phải có các phẩm chất cơ bản: Tận tụy với nghề, chấp nhận nghề dạy học; Quan hệ đúng mực và có tình cảm trong sáng đối với sinh viên; Có lý tưởng nghề dạy học; Gương mẫu trong lối sống, trong hoạt động chuyên môn và trong việc thực hiện các nghĩa vụ công dân. 17 - Nhóm kỹ năng giảng dạy: Kỹ năng lựa chọn, vận dụng nội dung dạy học, phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học …; Sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại. - Nhóm kỹ năng giáo dục: Bao gồm các kỹ năng xác định mục tiêu, hình thức giáo dục sinh viên theo chức năng nhiệm vụ đã được quy định; thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức nghề nghiệp, các kỹ năng sống cho sinh viên… - Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học: Kỹ năng lựa chọn vấn đề và tổ chức quá trình thực hiện một đề tài khoa học; kỹ năng hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. - Nhóm kỹ năng hoạt động xã hội: Kỹ năng tổ chức các hoạt động xã hội, kỹ năng hướng dẫn sinh viên tích cực tham gia các hoạt động phong trào … - Nhóm kỹ năng tự học: Người giảng viên cần biết lựa chọn các bước đi cho mình: Làm gì trước, làm gì sau? Học cái gì trước, học cái gì sau và học như thế nào? Ngoài ra, người giảng viên cần có kỹ năng hướng dẫn sinh viên tự tổ chức hoạt động học tập một cách có hiệu quả. 2. Những yêu cầu đối với người giảng viên với tư cách là nhà khoa học Người giảng viên phải nắm vững các phương pháp khoa học về giảng dạy và giáo dục, biết sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy, thường xuyên rèn luyện để nâng cao trình độ nghiệp vụ, tham gia tích cực vào hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ đào tạo và đời sống xã hội. Người giảng viên phải vạch ra chân lý khoa học cho sinh viên. Các tri thức khoa học được giảng dạy chính là kết quả nghiên cứu mà giảng viên thu được. Người giảng viên phải nghiên cứu cả hai lĩnh vực khoa học: lĩnh vực chuyên môn và khoa học giáo dục. Người giảng viên phải có phẩm chất của nhà nghiên cứu như lòng say mê khoa học, óc quan sát, sự trung thực và thẳng thắn, dám theo đuổi chân lý khoa học trong những điều kiện khó khăn … Người giảng viên vừa phải đưa được các tri thức khoa học vào bài giảng, vừa phải biết cách tác động đến sinh viên, thuyết phục sinh viên thay đổi quan điểm, thái độ, chấp nhận các tri thức mà giảng viên truyền thụ. 18 Giảng viên phải có khả năng giảng bài sinh động, có khả năng thể hiện các biểu cảm bằng ngôn ngữ phù hợp với yêu cầu của nội dung bài dạy; tạo ra không khí bình đẳng giữa sinh viên và giảng viên để sinh viên mạnh dạn thể hiện quan điểm của bản thân. 3. Các kiểu nhân cách giảng viên đại học Dựa vào sự kết hợp những phẩm chất nhất định của hai loại hoạt động sư phạm và hoạt động nghiên cứu khoa học của người giảng viên, có thể chia thành bốn kiểu nhân cách giảng viên đại học như sau: - Kiểu 1: Là những giảng viên có khả năng kết hợp tốt các hoạt động của nhà khoa học với hoạt động của nhà sư phạm. Đây là những giảng viên có trình độ chuyên môn giỏi, trình độ nghiệp vụ sư phạm cao, vừa giảng dạy tốt, vừa có nhiều công trình khoa học chất lượng. - Kiểu 2: Là những giảng viên làm tốt công việc của nhà khoa học, rất có lợi cho công tác hướng dẫn và nghiên cứu khoa học của sinh viên nhưng lại giảng dạy yếu vì không hấp dẫn sinh viên ở giảng đường, không được đánh giá cao trong giảng dạy. - Kiểu 3: Bao gồm các giảng viên thực hiện tốt các hoạt động sư phạm nhưng lại không thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu khoa học; trình độ chuyên môn tuy không cao nhưng kiến thức chắc chắn; tuy không có sự sáng tạo xuất sắc trong nghiên cứu nhưng khá thuần thục trong giảng dạy. - Kiểu 4: Là những giảng viên yếu cả về hoạt động khoa học lẫn hoạt động sư phạm. Có thể họ vẫn là giảng viên nhưng đã bị đào thải trong lòng sinh viên. V. Đặc điểm của giao tiếp sư phạm đại học 1. Giao tiếp sư phạm 1.1. Giao tiếp sư phạm là gì? - Giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt động sư phạm gọi là giao tiếp sư phạm. Hoạt động sư phạm là quá trình dạy học, bao gồm trong đó hoạt động của thầy [hoạt động dạy] và hoạt động của trò [hoạt động học]. 19 Hoạt động sư phạm điển hình phải là hoạt động xảy ra trong nhà trường, trong đó chủ yếu là sự giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên là người tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục trong nhà trường được gọi là chủ thể giáo tiếp với nghĩa chung nhất, còn học sinh là người lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp do giáo viên truyền đạt, với nghĩa này học sinh là đối tượng [khách thể] giao tiếp trong hoạt động sư phạm. Tuy nhiên, để dạy học, giáo dục đạt hiệu quả, chất lượng cao, chúng ta không thể coi học sinh là khách thể thụ động mà các em thực sự là một chủ thể có ý thức, hoạt động tích cực để lĩnh hội, tiếp thu tri thức khoa học do giáo viên truyền đạt. Như vậy, có thể hiểu: Giao tiếp sư phạm là sự tiếp xúc tâm lý giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền đạt và lĩnh hội những tri thức khoa học, vốn sống, vốn kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở học sinh. Giao tiếp sư phạm có 3 nét đặc thù: - Nét đặc thù thứ nhất: Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên [chủ thể giao tiếp] không chỉ giao tiếp với học sinh qua nội dung bài giảng, tri thức khoa học mà họ phải là tấm gương sáng, mẫu mực về nhân cách đúng với đòi hỏi của xã hội qui định cho học sinh noi theo. Nghĩa là, ở thầy giáo, lời nói, việc làm, hành vi ứng xử phải có sự thống nhất với nhau, có như vậy mới tạo được uy tín cao đối với học sinh. - Nét đặc thù thứ hai: Thầy giáo dùng các biện pháp giáo dục tình cảm, thuyết phục, vận động đối với học sinh, nghiêm cấm những hành vi xâm phạm thân thể và danh dự của học sinh. - Nét đặc thù thứ ba: Sự tôn trọng của Nhà nước và xã hội ta đối với giáo viên. Với truyền thống tôn sư trọng đạo của nhân dân ta nay cũng được Nhà nước ta qui định bằng luật. Nhà nước có chính sách và tạo điều kiện để xã hội quí trọng nhà giáo, tôn trọng nghề dạy học, bảo đảm các điều kiện vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của mình. 1.2. Vị trí, vai trò của giao tiếp sư phạm 20 Giao tiếp sư phạm là điều kiện đảm bảo hoạt động sư phạm, vì quá trình truyền đạt và lĩnh hội trong hoạt động sư phạm được diễn ra trong các mối quan hệ giao tiếp của thầy và trò. Như vậy, giao tiếp ở đây diễn ra như điều kiện của hoạt động sư phạm. Giao tiếp là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm. Những hình thức chủ yếu của công tác giáo dục và học tập diễn ra trong điều kiện giao tiếp, như giảng bài trên lớp, phụ đạo riêng, thi cử v.v... Không có giao tiếp thì hoạt động của giáo viên và học sinh không đạt được mục đích giáo dục. Giao tiếp sư phạm có vị trí cực kỳ quan trọng trong cấu trúc năng lực sư phạm. Giao tiếp nói chung có nhiều chức năng, trong hoạt động sư phạm, giao tiếp sư phạm cũng có nhiều chức năng. Nó có thể là công cụ phục vụ công việc giảng dạy, có thể là điều kiện xã hội - tâm lý bảo đảm quá trình giáo dục, có thể là phương thức tổ chức các mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò. Nếu coi hoạt động sư phạm phục vụ 3 mục đích: Giảng dạy, giáo dục và phát triển thì có thể xem giao tiếp sư phạm phục vụ việc thực hiện các mục đích trên. Như vậy: Giao tiếp sư phạm giữ một vị trí hết sức quan trọng và nổi bật trong cấu trúc năng lực sư phạm, trong tay nghề dạy học và giáo dục. Biết tổ chức giao tiếp sư phạm hợp lý là quá trình tạo mọi điều kiện thuận lợi về mặt tâm lý để phát triển động cơ học tập đúng đắn ở học sinh, phát huy được tính tích cực hoạt động trí tuệ, phát triển tính sáng tạo, xây dựng thái độ học tập đúng đắn, xóa đi hàng rào ngăn cách xa lạ giữa giáo viên với học sinh. Giao tiếp sư phạm hợp lý cũng có nghĩa là biết tạo ra những xúc cảm, tình cảm tích cực ở cả giáo viên và học sinh. Vì vậy, trong việc đào tạo người giáo viên tương lai không thể thiếu nội dung của giao tiếp sư phạm, thiếu nó thì người giáo viên không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình. 1.3. Các giai đoạn của giao tiếp sư phạm Theo kết quả nghiên cứu của các nhà TLH Xô Viết cũ: A.A.Bôđalôp, 21 V.A. Cancalich, N.V. Cudơmina, A.A. Lêônchiep giao tiếp sư phạm có thể chia thành 5 giai đoạn sau: - Giai đoạn định hướng trước khi thực hiện giao tiếp: Trong giai đoạn này, người giáo viên tìm hiểu đối tượng giao tiếp [từng học sinh, nhóm, tổ, lớp...]. Người giáo viên mô hình hoá việc giao tiếp với nhóm, lớp học sinh để chuẩn bị cho hoạt động giảng dạy sắp diễn ra. Do đó người giáo viên phải xác định mục đích và nhiệm vụ giáo dục, hoàn cảnh tâm lý, đạo đức của lớp học sinh, những đặc điểm tâm lý lứa tuổi và cá nhân học sinh, những đặc điểm nhân cách của chính bản thân giáo viên, hệ thống các phương pháp giáo dục và giảng dạy được sử dụng trong giao tiếp. - Giai đoạn tạo ra bầu không khí tiền giao tiếp: Bên cạnh giai đoạn định hướng chung, trong trường hợp với một lớp học mới, thì giao tiếp sư phạm ở đây còn phải qua giai đoạn tạo ra bầu không khí tiền giao tiếp. Giai đoạn này dựa vào thông tin ban đầu của giáo viên về học sinh và của học sinh về giáo viên. Trong giai đoạn này một việc có ý nghĩa quan trọng là làm sao tạo ra được ấn tượng ban đầu chân thật, mạnh mẽ, có thể để lại dấu ấn tốt đẹp cho quá trình giao tiếp sau đó. Giai đoạn này còn gọi là giai đoạn mở đầu của quá trình giao tiếp, nghĩa là người giáo viên tổ chức trực tiếp ở trên lớp với học sinh ngay lúc đầu tiên tiếp xúc với họ, giáo viên cụ thể hó kế hoạch giao tiếp, chính xác các điều kiện giao tiếp và thực hiện sơ bộ giai đoạn khởi đầu giao tiếp trực tiếp. - Giai đoạn “thăm dò tâm hồn đối tượng”: Đây là giai đoạn cuối cùng của thời kỳ chuẩn bị, đồng thời cũng chính là giai đoạn bắt đầu cuộc giao tiếp, thầy giáo hiểu tâm trạng học sinh, học sinh đồng cảm với thầy giáo, hai bên hiểu biết lẫn nhau. Đây là điều kiện đảm bảo cho giao tiếp sư phạm nói riêng, cho quá trình giảng dạy và giáo dục nói chung. - Giai đoạn điều chỉnh, điều khiển và phát triển quá trình giao tiếp: Đây là giai đoạn thực hiện một loạt thao tác cần thiết như cách nói với học sinh, cách im lặng giữa chừng, cách sử dụng các phương tiện trực quan, một số động tác tín hiệu: Giơ thước, chỉ bảng v.v... 22 Ở giai đoạn này, giáo viên phải thu hút sự chú ý của học sinh: Giảng bài, trả lời, giữ trật tự trong giờ giảng. Giai đoạn này còn gọi là giai đoạn ngôn từ, trình bày bài giảng, truyền thụ tri thức, đây là giai đoạn trọng điểm, hạt nhân trong giao tiếp sư phạm. - Giai đoạn phân tích hệ thống giao tiếp đã được thực hiện và xây dựng mô hình giao tiếp cho hoạt động tiếp theo Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình giao tiếp. Sự phân chia các giai đoạn giao tiếp ở trên không hoàn toàn tuyệt đối, không có nghĩa là các giai đoạn đó độc lập với nhau, mà giữa các giai đoạn có sự liên quan mật thiết, giai đoạn trước sẽ là cơ sở cho giai đoạn tiếp theo. 1.4. Nguyên tắc giao tiếp sư phạm 1.4.1. Nguyên tắc giao tiếp sư phạm là gì? Nguyên tắc giao tiếp sư phạm là hệ thống những quan điểm chỉ đạo, định hướng cho hành vi, hành động tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh nhằm đảm bảo kết quả của mọi quá trình giao tiếp. Những nguyên tắc giao tiếp sư phạm thực chất là những yêu cầu ứng xử, những yêu cầu này có tính bền vững đến mức độ chỉ đạo toàn bộ quá trình giao tiếp ở mọi hoàn cảnh [mọi tình huống] và đối với mọi cá nhân. Tuy nhiên, trong nguyên tắc vẫn có độ giao động để đảm bảo kết quả của một quá trình giao tiếp. Tuỳ thuộc vào đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và các tình huống giao tiếp khác nhau mà người giáo viên có thể vận dụng các nguyên tắc giao tiếp sư phạm cho phù hợp, đạt hiệu quả. Trong việc vận dụng các nguyên tắc này thì vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp của người giáo viên có vai trò quan trọng. 1.4.2. Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm Trong quá trình giao tiếp với học sinh, giáo viên cần đảm bảo các nguyên tắc sau: a] Nguyên tắc đảm bảo tính mô phạm trong giao tiếp Giáo viên hàng ngày tiếp xúc với học sinh, mọi hành vi, cử chỉ của học sinh dù có chủ định hay vô tình đều trực tiếp tác động vào nhận thức của các em. Thầy cô giáo như tấm gương để hàng ngày học sinh noi theo. Để giáo dục được 23 học sinh, nhân cách của người thầy phải là một nhân cách mẫu mực. Vì vậy, giáo viên cần phải đảm bảo tính mô phạm trong giao tiếp. Tính mô phạm trong giao tiếp được thể hiện: - Sự gương mẫu của người giáo viên về mọi mặt, điều đó được thể hiện trong hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ, trang phục.v.v... Nói năng phải mạch lạc, rõ ràng, khúc chiết, cử chỉ phải đĩnh đạc, đàng hoàng, tự tin. Thái độ và những biểu hiện của thái độ phải phù hợp với các phản ứng hành vi... Sự tế nhị, lịch thiệp của giáo viên là một nhân tố quan trọng cho sự thành công trong quá trình dạy học. - Trong giao tiếp với học sinh, thầy cô giáo cần có sự thống nhất giữa lời nói và hành động, tránh mâu thuẫn, không ăn khớp giữa lời nói với việc làm, vì điều đó sẽ làm ảnh hưởng không tốt tới sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. b] Nguyên tắc tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp có nghĩa là phải coi đối tượng giao tiếp là một cá nhân một con người với đầy đủ các quyền được học tập, lao động, vui chơi, nhận thức...,với những đặc trưng tâm lý riêng biệt, có quyền bình đẳng với mọi người trong các quan hệ xã hội. Trong quá trình giao tiếp, hãy tạo điều kiện thuận lợi để đối tượng giao tiếp bộc lộ thái độ, nhu cầu, nguyện vọng, những nét tính cách riêng... của họ. Giáo viên không nên áp đặt, ép buộc học sinh phải tuân theo ý mình một cách máy móc, duy ý chí. Tôn trọng nhân cách học sinh được thể hiện : - Phút ban đầu khi giao tiếp phải gây được ấn tượng tốt đẹp, dễ chịu để đối tượng giao tiếp có thể thiết lập được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp . - Trong giao tiếp, giữa chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp phải có sự hiểu biết lẫn nhau. Giáo viên cần lắng nghe ý kiến của học sinh, tôn trọng sự diễn đạt bằng ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ của các em, dù đúng hay sai cũng không nên cắt ngang hay tỏ thái độ phản đối gây cho các em sự sợ hãi không dám bày tỏ hết nguyện vọng của mình. 24 - Tôn trọng đối tượng giao tiếp được thể hiện ở trang phục của người giáo viên. Trang phục của giáo viên cần phải đảm bảo sự gọn gàng sạch sẽ, cân xứng hài hoà với vóc dáng, màu da, cử chỉ, điệu bộ, lời nói... - Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp thể hiện rõ nét nhất ở ngôn ngữ nói, từ giọng điệu, cách phát âm, việc sử dụng từ sao cho đảm bảo tính văn hoá. Bất luận trong những trường hợp nào cũng không nên sử dụng ngôn ngữ nói xúc phạm đến danh dự, tổn thương đến phẩm giai của học sinh, nhất là ở nơi đông người, trước lớp học. - Hành động của thầy cô trong tiếp xúc với học sinh cũng thể hiện sự tôn trọng nhân cách các em. Giáo viên cần tránh những hành động thể hiện sự thiếu tôn trọng học sinh. - Tôn trọng nhân cách đối tượng giao tiếp còn thể hiện ở chỗ chủ thể giao tiếp biết tôn trọng, khích lệ những ưu điểm của đối tượng giao tiếp, biết lắng nghe khi cần thiết. Tuy nhiên cần lưu ý: Tôn trọng nhân cách học sinh đồng thời phải yêu cầu hợp lý đối với họ. Tránh tình trạng thô bạo, đồng thời cũng tránh tình trạng nuông chiều, dễ dãi đối với họ. c] Nguyên tắc có thiện chí trong giao tiếp Có thiện chí trong giao tiếp là luôn nghĩ tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho người mình giao tiếp. Chủ thể giao tiếp luôn tin tưởng ở đối tượng giao tiếp, không định kiến, nghĩ xấu về người khác. Trong giao tiếp với học sinh, thầy cô giáo cần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với các em, động viên, khích lệ tinh thần của các em, biết lắng nghe ý kiến của học sinh, quan tâm tới đặc điểm riêng của học sinh, không tạo khó khăn căng thẳng trong quá trình giao tiếp, không quát mắng, xỉ nhục học sinh. Giáo viên cần chân thành cởi mở với học sinh, không nên vì quyền lợi của bản thân mà xúc phạm tới danh dự của học sinh, không nên cười chê, chế giễu trước thất bại của người khác. Biết đặt lợi ích của học sinh lên trên hết, có thái độ công minh, chính trực trong việc nhận xét, đánh giá hay cho điểm với học sinh. d] Nguyên tắc đồng cảm trong giao tiếp 25 Đồng cảm trong giao tiếp có nghĩa là chủ thể giao tiếp phải biết đặt mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp. Thầy cô giáo phải biết sống trong niềm vui, nỗi buồn của các em. Muốn vậy, giáo viên phải quan tâm, tìm hiểu, nắm vững hoàn cảnh gia đình từng em, thông cảm với các em, nắm được đặc điểm tâm lý của học sinh…Từ đó cách ứng xử cho phù hợp, đem lại hiệu quả cao trong dạy học và giáo dục. Nguyên tắc đồng cảm trong giao tiếp còn thể hiện ở chỗ: chủ thể giao tiếp biết xác định đúng không gian và thời gian giao tiếp, trong giao tiếp chủ thể giao tiếp không nên gây căng thẳng trong tâm trí của học sinh. Đồng cảm tạo ra sự gần gũi, thân mật, tạo ra mối quan hệ tốt đẹp, tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Đồng cảm là cơ sở hình thành mọi hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng và khoan dung. 2. Giao tiếp sư pham đại học 2.1. Đặc điểm của giao tiếp sư phạm đại học - Giảng viên với tư cách là chủ thể, thực hiện quá trình giao tiếp với sinh viên trên cương vị là một nhà giáo dục, một nhà khoa học. - Trong giao tiếp sư phạm đại học, giảng viên và sinh viên dễ đồng cảm với nhau do có sự đồng nhất nghề nghiệp. - Giao tiếp giữa giảng viên với sinh viên có tính hệ thống liên tục: Giao tiếp chính thức và không chính thức; giao tiếp trong học tập, nghiên cứu khoa học; giao tiếp trên giảng đường, trong hoạt động ngoại khóa … 2.2. Các kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học 2.2.1. Kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học là gì? Kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học là toàn bộ những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ phối hợp hài hoà hợp lý của giảng viên nhằm đảm bảo cho sự tiếp xúc với sinh viên đạt kết quả cao trong hoạt động dạy học và giáo dục với sự tiêu hao năng lượng tinh thần, cơ bắp ít nhất trong những điều kiện thay đổi. Hiểu một cách cụ thể: Kỹ năng giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của sinh viên và bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi 26 ngôn ngữ, biết cách tổ chức, điều khiển, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục. Như vậy, kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học thực chất là sự phối hợp rất phức tạp nhưng lại rất cá nhân của các thao tác, cử chỉ, điệu bộ, sự vận động của cơ mặt, ánh mắt, nụ cười [vận động môi miệng], tư thế đầu, cổ và những cử động của các ngón tay, bàn tay, cổ tay... cùng với ngôn ngữ nói của giảng viên nhằm đạt được mục đích giáo dục. 2.2.2. Các nhóm kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học * Căn cứ vào quá trình diễn biến của một pha giao tiếp, có thể chia các kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học thành 3 nhóm chính : a] Nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp Kỹ năng này được biểu hiện ở khả năng dựa vào sự biểu lộ bên ngoài như sắc thái biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu của ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, động tác...mà phán đoán chính xác những trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể giao tiếp [giảng viên] và đối tượng giao tiếp [ sinh viên]. Nhóm kỹ năng này bao gồm: Các kỹ năng đọc trên nét mặt, cử chỉ, hành động, lời nói và kỹ năng chuyyển từ sự tri giác cái bên ngoài đến cái bản chất bên trong của nhân cách người sinh viên. - Kỹ năng đọc trên nét mặt, cử chỉ, hành vi, lời nói Nhờ tri giác tinh tế và nhạy bén các trạng thái tâm lý qua nét mặt, cử chỉ, ngữ điệu, âm điệu của lời nói mà chủ thể giao tiếp phát hiện chính xác và đầy đủ thái độ của đối tượng. Ngôn ngữ là phương tiện biểu cảm rất phong phú, ngôn ngữ diễn tả tình cảm của cá nhân, nó thể hiện tính cách, trí tuệ, tình cảm, ý chí của con người. Tính chủ động hay bị đông, chân thành hay giả dối, tin tưởng hay hoài nghi đều in dấu trong giọng nói hay nhịp điệu của lời nói . Trạng thái xúc cảm của mỗi người còn được thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, hành vi... - Kỹ năng chuyển từ sự tri giác bên ngoài vào nhận biết bản chất bên trong của nhân cách 27 Sự biểu hiện các trạng thái tâm lý của con người qua ngôn ngữ và điệu bộ là rất phức tạp vì cùng một trạng thái xúc cảm lại có thể được bộc lộ ra bên ngoài bằng ngôn ngữ và điệu bộ khác nhau. Ngược lại, sự biểu hiện ở bên ngoài như nhau lại là vẻ ngoài của các tâm trạng khác nhau. Tuy nhiên, nhờ có những dấu hiệu biểu hiện chung nhất về xúc cảm qua các biểu hiện bên ngoài mà người ta vẫn có thể phán đoán đúng các trạng thái, đặc điểm tâm lý của đối tượng giao tiếp. Nhóm kỹ năng định hướng có thể được chia nhỏ hơn: định hướng trước khi tiếp xúc và định hướng trong quá trình tiếp xúc. - Định hướng trước khi tiếp xúc  Đó là một thói quen cần thiết trước khi tiếp xúc với bất kỳ đối tượng giao tiếp nào. Khi tiếp xúc với một sinh viên nào cần có những thông tin về sinh viên đó. Những thông tin này rất cần thiết để giảng viên phác thảo chân dung tâm lý của sinh viên mà mình cần tiếp xúc. Phác thảo chân dung tâm lý là xây dựng mô hình tâm lý về những phẩm chất tâm lý đặc thù của đối tượng. Trên cơ sở đó, giảng viên có các " phương án " ứng xử khác nhau, "dự đoán" , lường trước những phản ứng có thể có của đối tượng giao tiếp. Từ đó, có cách ứng xử phù hợp nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao. - Định hướng trong quá trình tiếp xúc  Định hướng trước khi tiếp xúc mới chỉ tạo ra những chân dung tâm lý giả định. Khi tiếp xúc với sinh viên, tập thể sinh viên, người giảng viên mới gặp trực tiếp những đối tượng đó. Chính sự gặp gỡ trực tiếp là thực tiễn kiểm nghiệm sự đúng, sai của mô hình giả định. Từ đó, chủ thể giao tiếp sẽ nhanh chóng điều chỉnh để có chân dung tâm lý chính xác hơn về đối tượng giao tiếp và có phương án ứng xử hợp lý hơn đối với đối đối tượng đó. b] Kỹ năng định vị  Kỹ năng đảm bảo sự đồng cảm giữa chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp đó là kỹ năng định vị. Kỹ năng này là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng ... để có thể vui, buồn với 28 niềm vui, nỗi buồn của họ, biết tạo ra điều kiện để đối tượng chủ động giao tiếp với mình. Kỹ năng định vị của người giảng viên còn thể hiện ở chỗ biết xác định đúng không gian và thời gian giao tiếp. Kỹ năng định vị thực chất là kỹ năng xây dựng “phác thảo chân dung tâm lý” về đối tượng giao tiếp ở giai đoạn đúng, chính xác, tương đối ổn định. Ở kỹ năng này những nội dung chủ yếu thuộc về nhóm dấu hiệu nhân cách, vị trí của sinh viên trong các quan hệ xã hội. Tính khái quát và tính cá biệt cần được lưu ý khi xây dựng “phác thảo chân dung nhân cách sinh viên”. c] Nhóm kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp thể hiện ở chỗ biết thu hút đối tượng. Tìm ra đề tài giao tiếp, duy trì nó, xác định được nguyện vọng, hứng thú của đối tượng, biết làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân và biết sử dụng hợp lý các phương tiện giao tiếp. Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp bao gồm: - Kỹ năng điều khiển đối tượng giao tiếp  Kỹ năng này được thể hiện ở chỗ biết thu hút đối tượng giao tiếp, tìm ra đề tài giao tiếp. Tuỳ đối tượng giao tiếp và tình huống giao tiếp cụ thể cần biết nói gì và làm gì lúc bắt đầu giao tiếp. Biết thúc đẩy hoặc kìm hãm tốc độ giao tiếp khi cần thiết, thậm chí cắt giảm hoặc thay thế thành phần trong nội dung giao tiếp cho phù hợp. Biết tạo ra những xúc cảm tích cực cho đối tượng giao tiếp. Tìm hiểu nhu cầu, hứng thú của đối tượng và nếu có thể hướng nội dung giao tiếp vào những nhu cầu hứng thú đó. - Kỹ năng điều khiển bản thân chủ thể giao tiếp  Kỹ năng này được biểu hiện ở khả năng làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân: biết tự kiềm chế, che dấu được tâm trạng của bản thân khi cần thiết. Biết tạo ra hứng thú, xúc cảm tích cực cho bản thân mình. Biết điều khiển, điều chỉnh các diễn biến tâm lý của mình và các phương pháp tiến hành giao tiếp sao cho phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng mà vẫn đạt được mục đích giao tiếp. 29 - Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp  Phương tiện giao tiếp đặc trưng cho con người là ngôn ngữ. Trong Tâm lý học, người ta khẳng định rằng: nếu nội dung của lời nói tác động vào ý thức thì ngữ điệu của nó tác động mạnh mẽ đến tình cảm của con người. Ngoài ngôn ngữ diễn cảm thì tác phong, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, nụ cười... cũng là những hình thức biểu cảm trong quan hệ giao tiếp. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho phương tiện biểu cảm bằng ngôn ngữ khiến quá trình giao tiếp diễn ra nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả. * Cũng có thể chia kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học thành các kỹ năng cụ thể như sau: - Kỹ năng tìm hiểu đối tượng giao tiếp - Kỹ năng tìm hiểu môi trường giao tiếp - Kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp - Kỹ năng lắng nghe - Kỹ năng thấu cảm - Kỹ năng phản hồi - Kỹ năng thuyết trình - Kỹ năng thuyết phục - Kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi - Kỹ năng hợp tác - Kỹ năng xử lý tình huống Câu hỏi thảo luận: 1. Phân tích bản chất của tâm lý người, từ đó vận dụng vào lĩnh vực dạy học và giáo dục ở đại học. 2. Phân tích những đặc trưng tâm lý cơ bản của sinh viên. Tại sao người giảng viên cần phải nắm vững các đặc điểm tâm lý đó? 3. Tại sao sinh viên đã là người học nghề mà vẫn phải quan tâm đến xu hướng nghề nghiệp của họ? 4. Trình bày đặc điểm của các hoạt động cơ bản của sinh viên. Việc nắm vững những đặc điểm đó có ý nghĩa như thế nào đối với hoạt động giảng dạy của người giảng viên ở trường đại học? 30 5. Phân tích các kiểu nhân cách sinh viên. Theo anh [chị], ngoài các kiểu đó có thể có các kiểu sinh viên nào khác? 6. Phân tích những yêu cầu cần thiết đối với người giảng viên với tư cách là nhà sư phạm và với tư cách là nhà khoa học. 7. Phân tích các kiểu nhân cách giảng viên đại học. Theo anh [chị], để nâng cao chất lượng giáo dục đại học cần phát triển kiểu giảng viên nào? Làm thế nào để phát triển được kiểu giảng viên đó? 8. Phân tích các đặc trưng và các kỹ năng giao tiếp sư phạm đại học. Tài liệu tham khảo: [1]. Đặng Quốc bảo, Trần Quốc Thành, Đặng Thành Hưng [2008], Một số vấn đề về quản lý giáo dục đại học và lý luận dạy học vận dụng trong dạy học đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo. [2]. Phạm minh Hạc, Lê khanh, Trần trọng Thủy [1988], Tâm lý học- tập I, NXB Giáo dục. [3]. Ngô công Hoàn, Hoàng Anh [1998], Giao tiếp sư phạm, NXB Giáo dục [4]. A.N. Lêônchiev [1989], Hoạt động-giao tiếp - nhân cách, NXB Giáo dục, Hà Nội. [5]. Trần thị tuyết Oanh [chủ biên], Phạm Khắc Chương, Phạm Viết Vượng, Nguyễn Văn Diện, Lê Tràng Định [2005], Giáo dục học tập 2,NXB Đại học sư phạm. [6]. Phan Trọng Ngọ [chủ biên], Dương Diệu Hoa, Nguyễn Thị Mùi [2000], Tâm lý học hoạt động và khả năng ứng dụng vào lĩnh vực dạy học, NXB ĐHQG Hà nội. [7]. Nguyễn Thạc, Phạm thành Nghị [1992], Tâm lý học sư phạm đại học, NXB Giáo dục. [8]. Luật Giáo dục ngày 14/06/2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 25/11/2009. [9]. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành [2001], Tâm lý học đại cương, NXB ĐHQG Hà nội. [10]. Phạm Viết vượng [2008], Giáo dục học, NXB ĐHSP .

31

Video liên quan

Chủ Đề