Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính

II. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính

Show

1. Xây dựng chính quyền cách mạng

- Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu bầu Quốc hội và đã bầu ra 333 đại biểu.

- Ngày 02/03/1946, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp.

- Các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ bầu cử hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.

- Ngày 09/11/1946: bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua.

- Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam giải phóng quân đổi thành Vệ quốc đoàn (9/1945), rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (22/5/1946).

- Cuối năm 1945, lực lượng dân quân tự vệ tăng lên hàng chục vạn người.

Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

Cử tri Hà Nội đi bỏ phiếu bầu Quốc hội năm 1946

* Ý nghĩa của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên

- Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Khẳng định lòng ủng hộ son sắc của cả dân tộc đối với Đảng và Chính phủ cách mạng trước những âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và tay sai.

- Trên đây là những điều kiện ban đầu để Đảng và Nhà nước vượt qua được tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” lúc bấy giờ.

2. Giải quyết nạn đói

a) Biện pháp trước mắt

- Hồ Chủ Tịch kêu gọi “nhường cơm sẻ áo”, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm”.

- Quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ, không dùng gạo, ngô, khoai, sắn để nấu rượu.

b) Biện pháp lâu dài

- Tăng gia sản xuất “Tấc đất tấc vàng”, “Không một tấc đất bỏ hoang”.

- Bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý.

- Giảm tô, thuế ruộng đất 25 %, chia lại ruộng đất công.

=> Kết quả: sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi.

Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

Nhân dân Nam Bộ quyên góp gạo cứu giúp đồng bào bị đói ở Bắc Bộ

3. Giải quyết nạn dốt

- Xóa nạn mù chữ là nhiệm vụ cấp bách. Ngày 8/9/1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh lập Nha Bình dân học vụ, kêu gọi nhân dân xóa nạn mù chữ.

- Từ 9/1945 đến 9/1946, trên toàn quốc gần 76 nghìn lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người.

- Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm khai giảng, nội dung và phương pháp giáo dục được đổi mới theo tinh thần dân tộc dân chủ.

Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp Bình dân học vụ

4. Giải quyết khó khăn về tài chính

- Kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước qua “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng”, thu được 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào “Quỹ độc lập”, 40 triệu đồng vào “Quỹ đảm phụ quốc phòng”.

- Ngày 23/11/1946. Quốc hội cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.

Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

Giấy bạc 100 đồng của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Video tư liệu vềxây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính

ND chính

Những nội dung cơ bản về bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau năm 1945.

Sơ đồ tư duyBước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính

Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

Loigiaihay.com

  • Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

    Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng

    Tóm tắt mục III. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng

  • Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

    Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 có những thuận lợi và khó khăn gì?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 122 SGK Lịch sử 12

  • Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

    Hãy nêu những kết quả chủ yếu đạt được trong năm đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết khó khăn của đất nước sau Cách mạng tháng Tám

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 125 SGK Lịch sử 12

  • Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

    Đảng và Chính phủ cách mạng đã thực hiện chủ trương, sách lược như thế nào đối với quân Trung Hoa Dân quốc và bọn phản cách mạng ở phía Bắc sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 129 SGK Lịch sử 12

  • Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

    Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp ngày 6 - 3 - 1946 được kí kết trong hoàn cảnh như thế nào? Nêu nội dung và ý nghĩa của Hiệp định

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 129 SGK Lịch sử 12

CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI, GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT, BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (8-1945 - 12-1946)

Đăng lúc: 09/03/2021 (GMT+7)
100%

Chương III

CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI, GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT,

BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM,

CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

(8-1945 - 12-1946)

ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đang phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách hiểm nghèo do chế độ thực dân phong kiến để lại: sản xuất đình đốn, nạn đóỉ hoành hành, gần 2 triệu người chết đói, hơn 90% dân số mụ chữ, tài chính quốc gia trống rỗng thì trung tuần tháng 9 năm 1945,20 vạn quận Tưởng Giói Thạch với danh nghĩa quân đội đồng minh đến miền Bắc nước ta, mang theo bọn Việt Nam Quôc dân Đảng tay sai, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, gây cho Chính phủ và nhân dân ta muôn vàn khó khăn. Trong Nam núp sau quân đội Anh, quân đội Pháp gây hấn ở Nam Bộ, âm mưu đặt ách cai trị các nước Đông Dương một lần nữa. Cùng thời gian đó, một trung đoàn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào Thanh Hóa uy hiếp chính quyền cách mạng còn non trẻ. Chúng chiếm đóng các vị trí quan trọng trong thị xã (nay là thành phố Thanh Hóa) như trụ sở Nông Giang, phố Cửa Tả... đòi cung cấp lương thực, thực phẩm, đặt súng máy trên các ngả đường, đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng và tung tiền giấy quan kim mất giá vào tỉnh ta để vơ vét hàng hóa gây ra những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Chúng ép chính quyền cách mạng đưa tên phản động Quốc dân Đảng Đỗ Văn giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền cấp tỉnh. Chúng nuôi dưỡng, trang bị vũ khí và vạch ra kế hoạch cho bọn Quốc dân Đảng lập ra đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh (nay là xã Hợp Lý - Triệu Sơn). Một số tổ chức phản động ngóc đầu dậy tìm cách phá hoại. Những tên phản động đầu sỏ như: Nguyễn Trác, Trương Thê Giám, Đào Duy Hách, Khiếu Hữu Kiều tích cực hoạt động trong các vùng tôn giáo, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, xây dựng lực lượng chuẩn bị đón Pháp quay trở lại thống trị nhân dân ta.

Nằm trong hoàn cảnh chung, chính quyên cách mạng huyện Thọ Xuân trong những ngày mới thành lập cũng đứng trước những thử thách tưởng chừng không thể vượt qua.

Ngày khởi nghĩa chính quyên cách mạng tiếp quản huyện đường chỉ có những gian nhà chông rỗng, mọi hoạt động của chính quyền cách mạng đều dựa vào các đoàn thể và sự đóng góp của nhân dân.

Bộ máy chính quyền từ huyện xuống xã mơi thành lập còn non yếu, bỡ ngỡ và lúng túng trong tô chúc quản lý xã hội.

Đời sống nhân dân, nhất là người lao động vô cùng khó khăn, tình trạng thiếu lương thục trầm trọng. Nạn đói xảy ra hồi đầu năm 1945 liên tiếp hoành hành đe dọa sinh mệnh của hàng ngàn người dân trong huyên, hơn 95% dân số trong huyện mù chữ. Tệ nạn xã hội như: rượu chè, cờ bạc, mê tín, dị đoan... do xã hội cũ để lại nặng nê, dịch bệnh phát sinh ở nhiều vùng trong huyện....

Lợi dụng tình thế khó khăn, bọn phản cách mạng tìm cách liên kết vói bọn Quốc dân Đảng công khai hoặc ngấm ngầm chông phá cách mạng. Chúng cho tay chân chui vào các đoàn thể của ta, lợi dụng danh nghĩa cách mạng, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, đe dọa uy hiếp nhân dân, tìm cách phá cơ sở cách mạng. Chúng tự đến các làng để diễn thuyết, lập hội, viết báo tuyên truyền tư tưởng phản động.

Hoạt động của bọn phản cách mạng đã bị chính quyền và lục lượng cách mạng trong huyện ngăn chặn, triệt phá, âm mưu, thủ đoạn của chúng bị vạch trần trước đông đảo nhân dân.

Bên cạnh nhũng khó khăn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thọ Xuân có những thuận lợi cơ bản. Đó là khí thế phong trào cách mạng đang sục sôi, lòng yêu nước, khát khao với độc lập tự do và tinh thần cách mạng của nhân dân đang dâng cao. Đội ngũ cán bộ, đảng viên đã qua thử thách, được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng. Chính quyền nhân dân còn non trẻ nhưng được nhân dân hết lòng ủng hộ.

Để giải quyết tình hình nói trên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã vạch ra phương hướng, biện pháp bảo vệ và xây dựng chế độ mới, đối phó với các lục lượng phản động quốc tế đang bao vây, tấn công cách mạng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tichi Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Chính phủ và nêu ra 6 việc cấp bách cần phải làm ngay:

Một là: Phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói, mở một cuộc lạc quyên để giúp đỡ người nghèo.

Hai là: Phát động phong trào chống nạn mù chữ.

Ba là: Tổ chức cuộc Tổng tuyển cử vói chế độ phổ thông đầu phiếu, thục hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Bốn là: Thực hiện cần kiệm, liêm chính bài trừ thói hư tật xấu do chê độ cũ để lại.

Năm là: Bỏ ngay 3 thứ thuế: thuế thân, thuê chợ và thuế đò, cấm hút thuốc phiện.

Sáu lằ: Tuyên bô tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai việc quan trọng nhất là cứu đói ở Bắc và đánh giặc ở Nam. Đó là hai nhiệm vụ trước mắt, nhưng cũng là hai nhiệm vụ chiến lược. Trên cơ sở phương hướng đó, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”.

Sau khi phân tích những thay đổi căn bản vê tình hình quốc tế và trong nước sau đại chiến thế giới thứ hai, Trung ương Đảng nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của nhân dân ta lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.

Thực hiện lời kêu gọi “Chống giặc đói” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng trong huyện và Mặt trận Việt Minh Thọ Xuân đã khẩn trương thành lập các ban cứu đói, tổ chức quyên góp thóc gạo, tiền bạc giúp đỡ những người bị đói và phát động phong trào vận động quyên góp ủng hộ nhân dân bị đói, tổ chức vay lúa của nhà giàu, phát động phong trào “Hũ gạo tiết kiệm”.

Chính quyền cách mạng, bộ đội địa phương huyện và các đoàn thể cứu quốc: Nông dân, Phụ nữ, Mặt trận cử cán bộ bám sát cơ sở để tuyên truyền vận động nhân dân giúp nhau trong lúc khó khăn. Với tinh thần “Lá lành đùm lá rách”, nhiều gia đình còn chưa đủ ăn vẫn thường xuyên tiết kiệm gạo giúp đỡ những gia đình khó khăn hơn.

Chỉ trọng thời gian ngắn, toàn huyện huy động được 20.000 kg gạo và hàng vạn đồng bạc để cứu trợ kịp thời những gia đình nghèo đói tại địa phương, chu cấp cho dân quân tự vệ trong những ngày luyện tập, góp phần ủng hộ huyện Quảng Xương, Tĩnh Gia, Hậu Lộc....

Đến cuối năm 1945, nhân dân Thọ Xuân cùng nhân dân trong tỉnh quyên góp hàng trăm tấn lương thục cứu đói cho nhân dân trong tỉnh và dành một phần giúp đỡ nhân dân các tĩnh Hưng Yên và Bắc Ninh.

Phong trào vận động tiết kiệm lương thục ủng hộ người bị đói đạt két qủa tốt, nhưng chỉ là biện pháp túc thời. Vấn đề là phải tổ chúc sản xuất làm ra nhiều của cải vật chất xã hội - Đó mới là biện pháp có ý nghĩa chiến lược.

Thục hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng gia sản xuất, chính quyền cách mạng huyện Thọ Xuân đã phát động toàn dân trong huyện đẩy mạnh phong trào thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm trong chi dùng. Phong trào thi đua diễn ra sôi nổi rộng khắp với khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng”, nhân dân trong huyện: người người trồng rau muống, nhà nhà trồng hoa màu ngăn ngày cứu đói. Công tác khai hoang, phục hóa đã biến nhũng cánh đông, đôi, bãi hoang hóa thành nhũng bãi sắn, nương ngô xanh tốt.

Cùng với cuộc vận động tăng gia sản xuất, chính quyền cách mạng khẩn trương tiến hành chia lại ruộng công và đất vắng chủ cho nông dân nghèo sản xuất.

Cuộc vận động cứu đói và phong trào tăng gia sản xuất cứu đói đã đẩy lùi nạn đói, từng bước ổn định đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, ở một số nơi việc việc chia lại công điền, công thổ còn có biêu hiện lệch lạc vì chính quyền cách mạng chưa quan tâm đúng múc đến quyền lợi của quần chúng lao động, hoặc để bọn địa chủ phản động lũng đoạn. Có địa phương chưa nắm vững chủ trương, làm qúa đà. Những thiếu sót đã được phát hiện và kịp thời khắc phục, phong trào thi đua của quần chúng tiếp tục phát triển

Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Chống nạn thất học” - “Diệt giặc dốt”, huyện Thọ Xuân đã thành lập Ban Bình dân học vụ từ huyện đến xã, với phương châm: người biết chữ dạy người chưa biết chữ, phong trào diệt giặc dôt được phát động rộng rãi thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Người người đi học, cả nhà đi học. Con biết chữ dạy cha mẹ, anh biết chữ dạy cho các em. Học ban ngày, học buổi trưa, buổi tói, khắp thôn xóm ở đâu cũng tập đọc, tập viết. Khẩu hiệu “Đi học là yêu nước” đã trở thành phong trào cách mạng sinh động ở tất cả các thôn, xóm. Nhân dân tự nguyện cho mượn nhà, bàn ghế, cánh cửa, ván gỗ làm bảng, làm bàn, làm lớp học, giúp đỡ nhau giấy bút mực, ban ngày lao động sản xuất, buổi tối, buổi trưa tranh thủ học tập.

Cùng với việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục để mọi người tự nguyện, tự giác tham gia học tập, chính quyền và Ban Bình dân học vụ các địa phương đã sáng tạo ra nhiều biện pháp huy động mọi người đi học như: đón đường hỏi chữ, dựng 2 cổng: “vinh quang” và “cổng mù” (ai biết chữ cho đi cổng vinh quang, ai chưa biết chữ đi cổng mù). Vì thê ai ai cũng chăm lo học tập.

Với sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, sự tận tụy, nhiệt tình của chính quyền và Ban Bình dân học vụ các cấp chỉ trong thời gian ngan nhiều người trong huyện đã biết đọc, biết viết. Tính đến cuối năm 1946, toàn huyện Thọ Xuân đã tổ chúc hàng trăm lớp học, thu hút hàng ngàn người đi học. Nhiều cán bộ Bình dân học vụ đã lặn lội với phong trào như các ông: Trịnh Quang Tân, Lê Đãng Các, Hoàng Hải, Lê Huy Hớn...

Bên cạnh các lớp Bình dân học vụ, hệ thống trường Phổ thông Tiểu học được thành lập thu hút con em nhân dân lao động đến trường. Trường Tiểu học thị trấn Thọ Xuân, Bái Thượng, Quảng Thi được xây dựng hoàn thiện từ lóp nhất đến lóp năm.

Có thể khẳng định: chế độ mới đã tổ chức cho toàn dân học tập nâng cao dân trí xã hội. Phong ưào Xóa nạn mù chữ có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc.

Cùng vói diệt giặc đói, giặc dốt, chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh huyện đã chăm lo đến việc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Măc dù cơ sở vật chất và trang bị gần như chưa có gì, nhưng việc giải quyết dịch bệnh xã hội, cứu chữa những người mắc bệnh trong và sau nạn đói được tiến hành khẩn trương. Vào giữa năm 1946 Ty Y tế Thanh Hóa đã kịp thời mở lớp đào tạo cấp tốc đội ngũ y tá, nữ hộ sinh cho các địa phương. Hàng chục cán bộ Y tế huyện, xã gửi đi học đã kịp thời trở vê địa phương phục vụ nhân dân. Các cuộc vận động “ăn chín uống sôi”, “nằm màn”, “đào giêng”, “vệ sinh cấ nhân”, “vệ sinh thôn xóm” đã góp phần đẩy lùi dịch bệnh, nâng cao sức khỏe cho nhân dân.

Các cuộc vận động chống mê tín dị đoan, xóa bỏ các tập tục lạc hậu được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội đã tạo ra những yếu tố ban đầu hình thành nên văn hóa của chế độ dân chủ nhân dân.

Thục hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức “Tuần lễ vàng, bạc, đồng”, xây dựng “Quỹ độc lập" dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện Thọ Xuân đã nhanh chóng lập Ban vận động tư huyện xuống cơ sở. Các Ban vận động đã tuyên truyền giải thích cho toàn dân hiểu rõ ý nghĩa của cuộc vận động. Cán bộ Mặt trận đã đến từng gia đình để giải thích và tổ chúc quyên góp. Quyết giữ vững nền độc lập non trẻ, nhân dân Thọ Xuân đã hăng hái tham gia cuộc vận động. Nhiều nhà giàu hảo tâm tự nguyện đóng hoa tai, khuyên vàng, nhẫn hoặc dây chuyền vàng, bạc. Nhiều gia đình còn góp cả đồ gia dụng bàng đồng như nồi đồng, lư hương, mâm đông, ấm đồng... và đồ té lễ bằng đồng. Sáu mẹ con bà Tuần Vực (Tây Hồ) ủng hộ 6 đôi hoa tai vàng.

Sau thời gian ngắn, phát động, toàn huyện đã quyên góp được gần 400 đồng cân vàng, hàng chục kg bạc và 20.000kg đòng cùng 23,5 triệu đồng. Cuộc vận động xây dựng qũy độc lập thành công biêu hiện tinh thần yêu nước thiết tha và quyết tâm giữ gìn độc lập tự do của nhân dân Thọ Xuân.

Đảm bảo cho sự nghiệp đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt thắng lợi, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, đầu tháng 10 nãm 1945, tại trụ sở Việt Minh huyện, hội nghị thành lập Đảng bộ tiến hành.

Hội nghị đã tiến hành kiểm điểm tình hình trong huyện từ sau ngày khởi nghĩa và đề ra những chủ trương công tác mới nhằm tăng cường xây dựng khối đoàn kết toàn dân; xây dựng củng cố chính quyền, tập trung chống giặc đói, giặc dốt và sẵn sàng chống giặc ngoại xâm, phát triển đảng viên và các chi bộ cơ sở và phân công càn bộ phụ trách các mặt công tác quan trọng.

Hội nghị đã tiến hành bầu Huyện ủy lâm thời gồm 5 đồng chí: Hoàng Sỹ Oánh, Lê Xuân Tại, Hồ Sĩ Nhân, Dương Vãn Du và Hoàng Văn Ngữ. Đồng chí Dương Vãn Du (tức Du lùn) được bầu làm Bí thư.

Việc thành lập Đảng bộ và Huyện ủy lâm thời dựa trên cơ sở các chi bộ cộng sản thời kỳ 1930-1945 đã tạo ra sự lãnh đạo tập trung thống nhất và trục tiếp của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào cách mạng trên địa bàn Thọ Xuân.

Theo chủ trương của Trung ương Đảng, Huyện ủy Thọ Xuân thành lập “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” ở cấp huyện và xã... truyền bá lý luận cách mạng cho quần chúng tiên tiến cảm tỉnh với Đảng, trên cơ sở đó lụa chọn những người ưu tú kếp nạp vào Đảng. Từ khi Huyện ủy lâm thời được thành lập, công tác xây dựng cơ sở Đảng trên địa bàn toàn huyện được đẩy mạnh và đạt kết quả mới. Đến cuối năm 1945, ở nhiều xã, thôn trong huyện đã có cơ sở Đảng, hoặc đảng viên.

Qua hoạt động thực tiễn, chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng từng bước được củng cố, dần dần khắc phục được những yếu kém, lệch lạc, đội ngũ cán bộ, ngày càng trưởng thành.

Để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động và hiệu lực hoạt động của chính quyền dân chủ nhân dân, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo kiện toàn chính quyền từ huyện xuống xã, theo Sắc lênh số 63 của Chính phủ.

Cuối 1945, bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, thành lập đơn vị hành chính cấp xã. ủy ban hành chính cấp xã bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên làm nhiệm vụ của một cấp chính quyền cơ sở có chức năng tổ chức, quản lý, điêu hành xã hội trên địa bàn xã và phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ.

Cùng với củng cố chính quyên, các đoàn thể cứu quốc từ huyện đến xã cũng được củng cố, mở rộng. Các đoàn thê cứu quốc xây dựng chương trình hoạt động cụ thể phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế ở địa phương và từng lĩnh vực.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, đồng bào chiến sĩ Nam Bộ tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủỳ Thọ Xuân đã tổ chức những cùộc mít tinh quần chúng ủng hộ đông bào Nam Bộ, phản đôi thực dân Pháp xâm lược. Cuối tháng 10 năm 1945, huyện đã tổ chức lễ tiến đưa đoàn quân “Nam tiến” đầu tiên gồm 15 thanh niên yêu nước lên đường cùng đồng bào Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Khu ủy 4, đáp ứng yêu cầu mói của cách mạng, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo chính quyên cách mạng và cơ quan quân sự các cấp tô chúc các lóp huấn luyện quân sự ngắn ngày cho đội ngũ cán bộ, dân quân du kích trong toàn huyện.

Tháng 10 và tháng 11 năm 1945, tại làng Hội Hiền (Tây Hồ) đã mở 2 lớp huấn luyện quân sự ngắn ngày, mỗi lóp có gần 100 cán bộ tiểu đội đến đại đội dân quân. Trong đó có một số cán bộ quân sự của huyện Thiệu Hóa và Vĩnh Lộc gửi đến học tập.

Đầu năm 1946, tại đồn điền Mã Hùm, Huyện ủy chỉ đạo mở lớp huấn luyện võ dân tộc, đến tháng 5 năm 1946, tại đình làng Qủa Hạ (Thọ Lộc) lại mở lớp huấn luyện quân sự cho cán bộ tiểu đội, trung đội và đại đội dân quân toàn huyện.

Các khóa huấn luyện của huyện do đông chí Hoàng Văn Ngữ, ủy viên quân sự trong ủy ban kháng chiến hành chính huyện phụ trách chung, ông Cao Thanh Tùng giáo viên võ thuật, ông Đội Huân giáo viên quân sự. Các lớp huấn luyện đã trang bị cho học viên kiến thức cơ bản về chính trị và quân sự làm nòng cốt xây dựng và huấn luyện lực lượng dân quân du kích ở các địa phương.

Từ tháng 12 năm 1945, Huyện ủy và ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện và các đoàn thể quần chúng từ huyện đến xã đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm cho mọi người dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, thể lệ bầu cử Quốc hội. Đây là sự kiện chính trị trọng đại đối với một dân tộc vừa thoát khỏi xích xiềng nô lệ của chế độ thực dân phong kiến.

Trước ngày bầu cử, tất cả câc xã trong huyện tổ chức mít tinh ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Đại biểu cử tri trong khu vực đã tập trung tại trụ sở huyện nghe ông Hoàng Sĩ Oánh thay mặt đoàn ứng cử viên nói chuyện và đề đạt nguyện vọng của nhân dân.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội khóa I được tiến hành như một ngày hội lớn của dân tộc. Các điểm bầu cử được trang trí cờ, hoa, khẩu hiệu trang trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân lao động được quyền tự do lựa chọn những người xứng đáng bầu vào cơ quan quyền lực cao nhất. Từ sớm cử tri toàn huyện đã tham gia bầu cử. Với ý thúc “chọn mặt gửi vàng”, lựa chọn những đại diện xứng đáng vào Quốc hội khóa I.

Tại Thọ Xuân, bọn phản động Quốc dân Đảng, bọn đội lốt Đảng Dân chủ tuyên truyền, xuyên tạc và quấy rối, nhung chính quyền cách mạng đã kịp thời ngăn chặn nên ngày bầu cử vẫn diễn ra thuận lợi, đạt kết qủa tốt Ông Hoàng Sĩ Oánh ứng cử viên Thọ Xuân đã trúng cử vào Quốc hội khóa I với số phiếu cao.

Thực hiện quyết định của Quốc hội và Chính phủ, thắng 4 năm 1946, cùng với các địa phương trong tỉnh huyện Thọ Xuân tiến hành bầu cử HĐND 2 cấp tỉnh và xã lập ra ủy ban hành chính các cấp. Ông Hoàng Sĩ Oánh được cử làm Chủ tịch ủy ban hành chính huyện.

Cùng với xây dựng củng cố hệ thống chính trị, vào cuối năm 1946 đầu năm 1947, sự đoàn kết thống nhất nội bộ lãnh đạo huyện không cao xuất phát từ việc làm kinh tài hoạt động. Đe giải quyết tình hình trên, Tỉnh ủy đã đứng ra triệu tập 2 cuộc hội nghị bất thường toàn Đảng bộ.

Hội nghị thứ nhất vào cuối năm 1946, tại đình làng Nam Thượng (Tây Hồ), có đồng chí Bí thư Khu ủy 4 và một đồng chí trong Thường vụ Tỉnh ủy tham dự.

Hội nghị thứ hai vào đầu năm 1947, tại đình làng Canh Hoạch (Xuân Lai), có đồng chí Hoàng Quốc Việt Thường vụ Trung ương Đảng và đồng chí Bùi Đạt Bí thư Tỉnh ủy tham dự.

Hai cuộc hội nghị bất thường toàn Đảng bộ đã nghiêm túc kiểm điểm phê bình phân định rõ đúng sai, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, củng cô đoàn kết thông nhất trong nội bộ lãnh đạo và toàn Đảng bộ tạo ra điều kiện cơ bản thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển.

Kiên quyết chông thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám, Tỉnh ủy lãnh đạo nhân dân trong tỉnh vừa kiên quyết đấu tranh với những hành động ngang ngược của quân Tưởng, vừa mềm dẻo buộc quân Tưởng và bè lũ tay sai thừa nhận chính quyền cách mạng, đồng thời đề ra những biện pháp sắc bén, khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ của địch, hạn chế sự phá hoại của chúng và vận động nhân dân không hợp tác với bọn Tàu Tưởng. Đối với bọn Quốc dân Đảng tay sai, Tỉnh ủy cương quyết tổ chức lực lượng trừng trị.

Được quân Tưởng che chở, bọn phản động ở ấp Di Linh đã trắng trợn tuyên truyền, xuyên tạc đường lối của Đảng và Chính phủ, lôi kéo quần chúng xây dựng lực lượng, chuẩn bị vũ khí, tích trữ lương thực, tập luyện quân sự hòng lật đổ chính quyền cách mạng.

Tỉnh ủy đã tổ chức lực lượng theo dõi quan hệ của địch ở ấp Di Linh với bọn phản động ở khách sạn Tứ Dân, Bồng Lai và cho trinh sát vào ấp Di Linh xây dựng cơ sở nội ứng và bắt một sô tên để khai thác tình hình.

Tháng 12 năm 1945, lực lượng tự vệ của 2 huyện Thọ Xuân, Nông cống kết hợp với cảnh sát xung phong tiến hành bao vây cắt đứt mọi liên hệ của bọn Quóc dân Đảng ở ấp Di Linh với bên ngoài và sử dụng các biện pháp quân sự uy hiếp địch.

Lục lượng tự vệ Thọ Xuân được chia thành nhiêu bộ phận thực hiện những nhiệm vụ khác nhau. Tự vệ làng Thạc (Xuân Lai) gồm 1 trung đội do cấc đồng chí Hà Như Trúc, Hà Duyên Ương chỉ huy đã tiến hành bao vây không chế các bốt gác của địch. Lục lượng tự vệ và du kích tập trung của huyện gồm 3 trung đội, Ông Lê Xuân Tại phụ trách 1 trung đội chốt giữ khu vực Nưa, ông Hoàng Văn Ngữ chỉ huy 1 trung đội chốt giữ ngã tư Giắt, ông Đội Huân chỉ huy 1 trung đội chốt chặn ngã ba đi Như Xuân.

Thường ngày lực lượng vũ trang cách mạng sử dụng 2 ô tô (chiến lợi phẩm thu được của Nhật) chở các chiến sĩ cảnh sát xung phong, quần áo, súng đạn uy nghiêm chạy nhiều vòng quanh ấp uy hiếp địch.

Bị quân ta khép chặt vòng vây, lương thục cạn kiệt, lại bị lục lượng nội ứng của ta thường xuyên kích động, chia rẽ. Trần Văn Bân - tên chĩ huy đầu sỏ dùng ngựa định chạy trôn nhưng đã gặp lục lượng tự vệ chốt chặn tại Giắt và bị đồng chí Hoàng Văn Ngữ chém ngựa trọng thương, tên Bân bị bắt. Lực lượng địch trong ấp Di Linh như rắn mất đầu đã đầu hàng cách mạng vô điêu kiện. Lực lượng vũ trang cách mạng thu 67 súng trường, 2 trung liên, 2 tiểu liên và nhiều quân trang, quân dụng.

Cuối năm 1945, Thọ Xuân đã được tỉnh giao nhiệm vụ quản thúc, nuôi giữ một số đối tượng chính trị như: Bảo Đại (Vĩnh Thụy), Vĩnh cẩn (em ruột Vĩnh Thụy), Lý Lệ Hà, tên lái xe cho Bảo Đại, Phan Văn Giáo và con trai Phan Văn Giáo là Phan Văn Tiến, một số yếu nhân Quốc dân Đảng và một số lính Nhật, Pháp. Chính quyền đã chỉ đạo lục lượng vũ trang cách mạng quản thúc bọn này nghiêm ngặt và đối xử đúng chính sách.

Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm đoàn kết tất cả các đảng phái và các tầng lớp nhân dân. Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam được thành lập vào ngày 29 tháng 5 năm 1946, Mặt trận Việt Minh là thành viên của Hội Liên Việt. Hệ thống tổ chức của Hội Liên Việt được thành lập từ tỉnh xuống xã. Nhiêu thẫn hào, nhân mỹ yêu nước được giao trọng trách chủ chốt.

Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Lâm thời, tháng 6 năm 1946, Hôi Liên hiệp Quốc dân huyện Thọ Xuân được thành lập, cũng trong tháng 6 nãm 1946, sổ hội viên Liên Việt huyện đã lên lới 42.327 người. Từ khỉ ra đời, Hội đã thu hút, động viên các tầng lớp nhân d&n tích cực tham gia công cuộc cách mạng do Đảng tố chứcc lãnh đạo.

*

* *

“Mười sáu tháng” - khoảng thời gian rát ngắn năm trong lịch sử dân tộc và lịch sử quê hương, nhưng Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã cùng với nhân dân cả tĩnh, cả nước làm nôn nhũng sự kiện lịch sử hào hùng oanh liệt và kỳ diệu.

Buổi đầu chế độ dân chủ nhân dân đứng trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc" - thù trong, giặc ngoài vây hãm, giặc đối, giặc dốt hoành hành, sản xuất đình đốn, ngân quỹ quốc gia trổng rống.

Nhưng bằng đường lối chiến lược, sàch lược khôn khéo, linh hoạt, cương quyết, táo bạo, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã tổ chức lãnh đạo dân tộc Việt Nam, nhân dân Thọ Xuân phá thế bao vây của quân thù, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám, chuẩn bị điều kiện kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Sự tồn tại phát triển của chế độ dân chủ nhân dân trong 16 tháng cam go thách thức đã khẳng định: dân tộc Việt Nam, nhân dân Thọ Xuân nhất quyết theo Đảng xây dựng bảo vệ xã hội mới.

Để giải quyết nạn dốt ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh thành lập tổ chức nào?


Câu 44335 Nhận biết

Để giải quyết nạn dốt ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh thành lập tổ chức nào?


Đáp án đúng: c

Phương pháp giải

Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945 – 1946) --- Xem chi tiết
...

Chính quyền cách mạng đã thực hiện các biện pháp cấp thời nào để giải quyết nạn đói?


Câu 18625 Nhận biết

Chính quyền cách mạng đã thực hiện các biện pháp cấp thời nào để giải quyết nạn đói?


Đáp án đúng: d

Phương pháp giải

Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính --- Xem chi tiết
...

Giải quyết giặc đói, giặc dốt năm 1945

Đăng lúc:Thứ hai - 11/09/2017 15:09- Người đăng bài viết: Đặng Thị Ngọc Trang- Chuyên mục : Đã xem: 70834

Để giải quyết nạn dốt chính quyền cách mạng đã thực hiện biện pháp gì

Phần 4: Bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến(8/1945 – 12/1946)

Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc ViệtNam. Nước Việt Nam mới – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Chính quyền cách mạng được thành lập từ Trung ương đến địa phương.

Nhà nước Dân chủ Cộng hoà non trẻ vừa ra đời đã phải đương đầu với bao khó khăn, trở ngại về kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, ngay từ sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 3-9-1945, Chính phủ họp phiên họp đầu tiên đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành 3 nhiệm vụ lớn “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Không chỉ khó khăn về kinh tế - xã hội mà chúng ta còn phải chống thù trong giặc ngoài với 20 vạn quân Tưởng đang vượt biên tràn vào miền Bắc dưới. Không chỉ khó khăn về kinh tế - xã hội mà chúng ta còn phải chống thù trong giặc ngoài với 20 vạn quân Tưởng đang vượt biên tràn vào miền Bắc dưới. Không chỉ khó khăn về kinh tế - xã hội mà chúng ta còn phải chống thù trong giặc ngoài với 20 vạn quân Tưởng đang vượt biên tràn vào miền Bắc dưới sự sắp đặt của quân Mỹ, theo sau là bọn phản động Việt Quốc, Việt Cách. Trước việc quân Pháp theo chân Đồng Minh vào nước ta ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Nhân dân Việt Namhoan nghênh quân Đồng Minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật, những cương quyết phản đối quan Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm.

Trước tình hình đó, để tập trung ngọn lửa đấu tranh vào thực dân Pháp xâm lược, ta tiếp tục tranh thủ hoà hoãn với quân Tưởng, nhằm phân hoá kẻ thù, để có thên thời gian và điều kiện chuẩn bị đối phó với cuộc kháng chiến chống Pháp có nguy cơ bùng nổ ra cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Hưng Yên lúc này cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Nạn đói và nan lụt diễn ra khủng khiếp; nông thôn, nông nghiệp tiêu điều; công nghiệp, tiểu công nghiệp và thương nghiệp bị đình đốn; tài chính trống rỗng (khi giành chính quyền ngân khố của toàn tỉnh có hơn 30 vạn động và tiền mua thóc còn lại 1triệu rưỡi)…Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn trên, Hưng Yên lại có những thuận lợi cơ bản, đó là có sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng bộ Hưng Yên với đội ngũ không nhiêu nhưng được tôi luyện trong lò lửa cách mạng, sẵn sang đi tiên phong trong mọi nhiệm vụ. Nhân dân Hưng Yên có truyền thống yêu nước, một lòng tin tưởng vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn trên, Hưng YênChính quyền mới thành lập được nhân dân ủng hộ. Mặt trận Việt Minh có cơ sở rộng rãi và có uy tín lớn…Dựa vào những thuận lợi cơ bản ấy, Đảng bộ Hưng Yên đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh vượt qua những khó khăn ban đầu, thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ để bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới.

4.1 Xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng

Thực hiện chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng, Đảng bộ Hưng Yên tập trung giải quyết hai nhiệm vụ trước mắt và cấp bách là cứu đói và xoá nạn mù chữ.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững tự do, độc lập.” Đảng bộ tỉnh đã mở cuộc vận động tăng gia sản xuất với khẩu hiệu “Không để một tấc đất bỏ hoang”, “tấc đất tấc vàng”, vận động nhân dân cấy tái giá, trồng rau ngắn ngày để giải quyết chống đói; đồng thời huy động hàng vạn dân đi đắp đê phòng lụt.Cuộc vận động tăng gia sản xuất trở thành phong trào rộng rãi, lôi cuốn nhiều tầng lớp tham gia. Mọi người đều hào hứng tham gia các phong trào thi đua “người người tăng gia, nhà nhà tăng gia”, tích cưc khai phá đất hoang, biến những cánh đồng ngập úng thành ruộng cấy… Qua mấy vụ sản xuất dươi chế độ mới, diện tích và sản lượng lương thực tăng khá nhanh.Vụ mùa năm 1945, toàn tỉnh cấy 60.000 mẫu, thu được 30.000 tấn; vụ mùa cấy 154.000 mẫu thu được 45.000 tấn. Năm 1946, vụ mùa cấy tăng lên so với năm 1945 là 18.000 mẫu nhưng bị đại hạn và thiếu trâu bò nên thu hoạch kém, vụ mùa thu hoạch tăng 50% so với năm 1945.

Cuộc vận động cứu đói cũng rất cấp bách. Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể Cứu quốc đã phối hợp tổ chức “lạc quyên”, “ngày đồng tâm”, lập “hũ gạo cứu đói”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và noi theo gương Người: Cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa (mỗi bữa 1 bò) để cứu dân nghèo, nhân dân toàn tỉnh đã tự nguyện nhịn bữa, bớt ăn, san sẻ thóc, gạo, ngô, khoai cho nhau, theo truyền thống “lá lành đùm lá rách”.Nhân dân Hưng Yên còn quyên góp giúp đồng bào Thái Bình một số lương thực thể hiện tấm lòng tương thân tương ái. Nhờ quyết tâm của nhân dân và sự hỗ trợ của Chính phủ, nạn đói dần được ngăn chặn, sản xuất được phục hồi, đời sống nhân dân bước đầu được ổn định.

Cùng với chống “giặc đói” là cuộc vận động “diệt giặc dốt”, bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống mới. Tỉnh uỷ chỉ đạo và phát động toàn dân tham gia diệt giặc dốt, xoá nạn mù chữ, thành lập Ban diệt giặc dốt ở các cấp. Ngày 8-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ. Ở Hưng Yên, các lớp học bổ túc, bình dân được thành lập nhanh chóng. Với tinh thần người biết chữ dạy người chưa biết, phong trào đã lôi cuốn từ các em thiếu nhi, chị em phụ nữ, đến các cụ già, thanh niên,thợ thủ công… hăng hái đi học với tinh thần “đi học là yêu nước”. Công tác tuyên truyên vận động nhân dân đi học cũng có nhiều hình thức phong phú như tranh thủ nói chuyện, liên hoan văn nghệ, sáng tác thơ ca… Việc đôn đốc, kiểm tra cũng rất khắt khe, bằng những biện pháp hình thức nghiêm túc như ngáng chặn các trục đường lớn có nhiều người qua lại, đường vào chợ để kiểm tra, ai biết chữ thì đi qua “cổng sáng”, ai không biết chữ phải chui qua cổng mù hoặc phải dừng lại học nhẩm thuộc chữ rùi mớiđược đi.

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng cuộc vận động “diệt giặcd dốt” đã trở thành phong trào rộng lớn. Tháng 6-1946, ngành giáo dục tỉnh Hưng Yên tổ chức “ngày đi học”. Nếu như cuối năm 1946 cả tỉnh có khoảng 171.000 người mù chữ (trong tông số dân là 499.734 người) thì tháng 10-1947 chỉ còn 86.729 người chưa biết chữ. Tháng 2-1948, có 22 thôn, 3 xã thanh toán xong nạn mù chữ, 4 thôn được Uỷ ban hành chính Bắc Bộ tặng Bằng khen.

Cuộc vận động “chống giặc dốt” xoá nạn mù chữ đã góp phần mở mang dân trí. Ngoài ý nghĩa về giáo dục nó còn có ý nghĩa về chính trị, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của mình.

Cuộc vận động xây dựng đời sống mới cũng được đẩy mạnh nhằm xây dựng nếp sống lành mạnh, đặt lợi ích chung lên trên hết. Bài trừ những thủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, phong trào thể dục thể thao, diễn văn nghệ được phát triển.

Về hoạt động Văn hoá, tờ báo Bãi Sậy do Ty Thông tin phụ trách, phát hành hàng ngày với số lượng 2.000 số. Ngoài ra trong tỉnh còn có 100 tờ “bích báo” của các ngành và cơ sở.

ông tác y tế tập trung giải quyết những vấn đề cần kíp trước mắt như truyền bá rộng rãi cách thức vệ sinh phòng dịch bệnh, đào tạo cán bộ y tế mới, phòng chống các dịch bệnh như đậu mùa, tả… Bước đầu việc chăm lo sức khoẻ cho người dân đã được quan tâm, chú ý.

Về chăm lo đời sống vật chất cho nhân dân, ngày 16-11-194, Chính phủ ra Thông tư về việc tạm chia ruộng cho dân cày nghèo. Ngày 20-11-1945, Ủy ban nhân dân Bắc Bộ ra Thông tư về thực hiện việc giảm tô 25%, bãi bỏ một số thứ thuế cũ, thực hiện giảm tô, hoãn nợ…

Cùng với chỉ đạo nông nghiệp, sản xuất chăn nuôi, Tỉnh uỷ còn chủ trương khôi phục bước đầu các ngành kinh tế, tài chính, sản xuất thủ công nghiệp truyền thống như dệt vải, thổi bóng đèn, gò hàn… bước đầu đã đi vào ổn định.

Ngành giao thông, bưu chính đã đi vào hoạt động cho đến khi cuộc kháng chiến của toàn quốc bùng nổ.

Ngày 4-9-1945, Chính phủ cách mạng lâm thời ra sắc lệnh xây dựng “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng” nhằm giải quyết những khó khăn về vấn đề tài chính. Hưởng ứng phong trào này, nhân dân trong tỉnh đã hăng hái đóng góp, riêng “Tuần lễ vàng” nhân dân Hưng Yên đã ủng hộ hàng trăm lạng vàng bạc, tiền Đông Dương. Nó thể hiện tinh thần yêu nước, niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Về chính quyền, sau Tổng khởi nghĩa thắng lợi, Tỉnh uỷ đã có nhiều biện pháp để củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền cách mạng lâm thời các cấp. Tại hội nghị Thổ Cốc ngày 18-8-1945, Tỉnh uỷ đã phân công tỉnh uỷ viên phụ trách và tham gia Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh, các ngành quân sự, công an… Đến tháng 9-1945, Uỷ ban nhân dân Cách mạng đổi thành Uỷ ban nhân dân lâm thời. Đầu năm 1946 đổi thành Uỷ ban hành chính lâm thời

Thi hành chủ trương của Trung ương về việc tổ chức tổng tuyển cử vào ngày 06-01-1946, từ tháng 12-1945, Tỉnh uỷ đã lãnh đạo và quán triệt chủ trương của Trung ương, mở đợt tuyên truyền, cổ động rộng khắp trong tỉnh, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc bầu cử.

Theo Sắc lệnh số 63 của Chính phủ, tháng 4-1946 nhân dân Hưng Yên đi bầu Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đông nhân dân xã. Kết quả có 30 đại biểu chính thức và 5 đại biểu dự khuyết đã trúng cử vào Hội đồng nhân dân tỉnh khoáI. Ngày 9-5-1946, Hội đồng nhân dân tỉnh họp phiên đầu tiên bầu ra Uỷ ban hành chính, thay cho Uỷ ban lâm thời. Uỷ ban hành chính tỉnh gồm 3 người: 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 Bí thư Việt Minh. Uỷ ban hành chính xã có 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch, 2 uỷ viên.

Tháng 9-1946, Uỷ ban hành chính cấp huyện được bầu ra (nhưng chưa có Hội đồng nhân dân cùng cấp). Riêng huyện Khoái Châu, đến tháng 11-1946 mới bầu ra Uỷ ban hành chính.

Thắng lợi của các cuộc bầu cử đã thể hiện tinh thần yêu nước, yêu chế độ mới của nhân dân ta và điều này có tính chất quyết định đến công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân

.Đối với lực lượng vũ trang đã được Đảng bộ xây dựng và củng cố. Phong trào luyện tập quân sự, mua sắm vũ khí, tự trang bị phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là mã tấu, dao găm, mác, giáo, súng… Nhiều lớp huấn luyện được tổ chức để đào tạo cán bộ quân sự. Tổ chức chỉ huy quân sự đã được hình thành tuy nhiệm vụ chức năng chưa rõ ràng. Cấp tỉnh có Uỷ ban bảo vệ, huyện có Ban bảo vệ, trực tiếp chỉ huy lực lượng cảnh vệ chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ công sở. Cùng với xây dựng lực lượng canh vệ, Tỉnh uỷ đã

chỉ đạo xây dựng lực lượng Công an. Tháng 4-1946, lực lượng Công an tỉnh Hưng Yên chính thức được thành lập bao gồm đội viên các đội “Việt Minh danh dự”, “Đội danh dự trừ gian”, “Đội phòng mật”… Nhiệm vụ chủ yếu lúc này là giữ gìn trật tự an ninh, trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân.

Ngoài lực lượng vũ trang của tỉnh còn có bộ đội chủ lực. Thực hiện Sắc lệnh 33/SL tháng 5-1946 và Sắc lệnh 71/SL tháng 6-1946 của Chính phủ, chiến khu 3 đã cải tổ các chi đội Vệ quốc đoàn thành lập 3 trung đoàn vệ quốc đoàn của chiến khu. Trung đoàn 44 đứng chân và hoạt động ở Hưng Yên, Hải Dương (Trung đoàn 50 ở Quảng Yên; Trung đoàn 41 ở Thái Bình, Kiến An).

Cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài ở Hưng Yên khá phức tạp. Đầu tháng 10-1945, quân Tưởng từ Hà Nội theo đường 5, đường sắt tràn về Hưng Yên. Ngày 20-11-1945, hơn 800 quân Tưởng kéo vào đóng ở thị xã Ba Hàng, Thuỵ Lôi (Tiên Lữ). Căn cứ vào tình hình cụ thể, Đảng ta đã chủ trương hoà hoãn với quân Tưởng để chống thực dân Pháp. Ngày 20-11-1945, tàn quân Nhật kéo về Hưng Yên với 3.000 tên, ở rải rác từ thị xã đến Thuỵ Lôi (Tiên Lữ). Đến ngày 20-3-1946, chúng mới rút đi hết.

Chấp hành chủ trương của trung ương, theo tinh thần “Hoa-Việt thân thiện” để phân hoá kẻ thù, chúng ta đã đón tiếp chu đáo, mềm dẻo tránh xung đột. Tỉnh uỷ lãnh đạo và giáo dục cán bộ, quân đội, quần chúng nhân dân bình tĩnh, tỉnh táo giữ nghiêm kỷ luật khi tiếp xúc với chúng và thành lập “Uỷ ban liên lạc Hoa - Việt”. Tuy nhiên, chúng tiếp tục đưa ra những yêu sách ngang ngược, không chịu tiếp xúc với chính quyền ta. Bên cạnh đó, bọn phản động, tay sai của chúng đã ngang nhiên hoạt động, kéo cờ,bắc loa nói xấu cách mạng. Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ một mặt chỉ đạo đấu tranh mềm dẻo nhưng kiên quyết, kiên trì và khôn khéo, vạch trần âm mưu và bộ mặt thật của quân Tưởng. Mặt khác, ta tổ chức, mít tinh biểu tình, biểu dương lực lượng với hàng ngàn người, hô vang những khẩu hiệu “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Ủng hộ Chính phủ Hồ Chủ Tịch”… Ngoài ra, ta còn phối hợp với lực lượng vũ trang bí mật, bao vây xung quanh khu vực chúng đóng quân.

Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, ngày 21-4-1946, quân Tưởng buộc phải rút lui ra khỏi địa bàn Hưng Yên.

Mặc dù vừa phải giải quyết những công việc chồng chất, khó khăn, vùa đấu tranh trực diện với quân Tưởng và bọn tay sai, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo kịp thời toàn tỉnh phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Nhân dân nô nức đóng tiền, gạo, thuốc men… vào “Quỹ Nam Bộ kháng chiến”. Tỉnh, huỵên thành lập “Phòng Nam Bộ”. Tỉnh tổ chức hai lần “Nam tiến” chỉ sau ba ngàyNam Bộ kháng

4.2 Củng cố phát triển đảng, mặt trận và các đoàn thể cứu quốc

Sau cách mạng tháng Tám 1945, tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp. Ngày 11-11-1945, Đảng ta tuyên bố tự “giải tán” mà thực chất là rút lui vào hoạt động bí mật để bảo vệ Đảng.

Thực hiện chủ trương của Trung ương và Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chủ trương “giải tán” đồng thời vẫn tiến hành công tác củng cố phát triển Đảng và chỉ đạo phong trào trong tỉnh.

Ngày 10-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với cán bộ, nhân dân Hưng Yên. Bác căn dặn đồng bào đắp đê chống lụt.

Thực hiện chủ trương của Trung ương và Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chủ trương “giải tán” đồng thời vẫn tiến hành công tác củng cố phát triển Đảng và chỉ đạo phong trào trong tỉnh.

Ngày 10-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với cán bộ, nhân dân Hưng Yên. Bác căn dặn đồng bào đắp đê chống lụt.

Đầu tháng 7-1946, Hội nghị đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên họp tại xã Chiến Thắng (Ân Thi) gồm 52 đại biểu toàn tỉnh. Đại hội đã bầu ra đựoc Ban Chấp hành tỉnh uỷ gồm 7 đồng chí do đồng chí Vũ Huy Hiệu làm Bí thư.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công nhất là sau Hội nghị Đảng bộ tỉnh, huyện, công tác phát triển đảng được đẩy mạnh từ 35 đảng viên (lúc Tổng khởi nghĩa) lên 134 đảng viên (12-1945) rồi 328 đảng viên (6-1946). Đến ngày 19-12-1946 toàn tỉnh có 629 đảng viên. Sinh hoạt đảng đã được chấn chỉnh.

Đối với Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn dân, mở rộng Mặt trận. Tỉnh có 2 cán bộ phụ trách, ở huyện có một số cán bộ phụ trách các xã, ở xã có ban vận động Việt Minh xã. Ở tỉnh có Tổng bộ Việt Minh, ở xã có Uỷ ban Việt Minh. Các tổ chức thanh niên Cứu quốc, phụ nữ Cứu quốc, nông dân Cứu quốc, Công giáo Cứu quốc… phát triển rộng khắp.

Ngày 27-5-1946, hội Liên - Việt Trung ương được thành lập, tháng 6-1946 Hội Liên - Việt Hưng Yên được thành lập. 4.3 Đấu tranh thi hành hiệp định Sơ bộ (6-3-1946). Chuẩn bị kháng chiến.

Đầu năm 1946, theo sự dàn xếp của bọn đế quốc Mỹ, Anh để Pháp chiếm lại Đông Dương, quân Pháp được thay thế quân Anh và quân tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật ở Việt Nam. Ngày 28-2-1946, Pháp - Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh, Pháp chính thức tiếp quản Đông Dương thay cho Tưởng. Như vậy, cách mạng Việt Nam đứng trước một tình thế mới hết sức phức tạp. Đất nước bớt đi một kẻ thù nhưng quân Pháp ngày càng ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược nước ta.Trước tình hình đó, ngày 24-2-1946, Thường vụ Trung ương Đảng họp chủ trương “ta nên nói chuyện với Pháp, nhưng đồng thời chuẩn bị kháng chiến…”, và ngày 3-3-1946 ra tiếp chỉ thị “Tình hình và chủ trương”. Ngày 5-3-1946, Ban Chấp hành Trung ương họp đồng ý ra chủ trương “Hoà để tiến”.

Ngày 5-3-1946, hạm đội Pháp tiến vào vùng biển Hải Phòng.

Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ.

Ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hoà để tiến”.

Ngày 30-10-1946, ta lại ký với Pháp Tạm ước 14-9. Tuy nhiên chỉ 10 ngày sau chúng lại bội ước.

Nhận thấy tình hình có nhiều diễn biến phức tạp và khẳng địng không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh ta. Tháng 10-1946, Tỉnh uỷ Hưng Yên họp Hội nghị cán bộ các huyện tại Thổ Cốc (Yên Mỹ) phổ biến tình hình nhiệm vụ mới và đề ra khẩu hiệu “Chuẩn bị kháng chiến là trên hết”. Sau Hội nghị, toàn tỉnh đã tập trung vào các nhiệm vụ lớn: Tăng cường củng cố phát triển Đảng, củng cố chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và lực lượng vũ trang; khẩn trương luyện tập quân sự…

Từ tháng 11 đến tháng 12-1946, công tác chuẩn bị kháng chiến càng khẩn trương. Ở các huyện gần đường 5 huyện uỷ chỉ đạo các xã tản cư xuống phía Nam. Công tác xây dựng “thôn trang chiến” (làng chiến đấu) được thực hiện khẩn trương; việc tiêu thổ kháng chiến được tiến hành triệt để…

Trong khoảng thời gian hơn 1 năm, từ Cách mạng Tháng Tám đến cuối năm 1946, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã giành được những thắng lợi bước đầu trong xây dựng và bảo vệ chính quyề cách mạng; giải quyết nạn đói và xoá nạn mù chữ, đấu trang thi hành Hiệp định Sơ bộ 6-3 và chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến.