1. Những hình thức cộng đồng người trong lịch sử
Để
tồn tại và phát triển, con người phải gắn kết với nhau thành những cộng
đồng. Trong quá trình phát triển của xã hội, các hình thức cộng đồng
người cũng biến đổi từ thị tộc đến bộ lạc, bộ tộc và dân tộc.
1.1. Thị tộc
Thị
tộc là cộng đồng người [gồm khoảng vài trăm người] có cùng một huyết
thống. Thị tộc là một đơn vị sản xuất và là một hình thức tồn tại cơ bản
của xã hội nguyên thuỷ. Do trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát
triển, nguồn sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi, vì vậy, vai
trò của người phụ nữ trong thị tộc có một vị trí đặc biệt. Chế độ quần
hôn thời kỳ đầu và địa vị độc tôn của người phụ nữ trong sản xuất chính
là cơ sở hình thành hình thức thị tộc mẫu quyền đầu tiên trong lịch sử.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm thay đổi vị trí của người
đàn ông trong chế độ thị tộc. Hình thức thị tộc phụ quyền đã ra đời đã
thay thế hình thức thị tộc mẫu quyền. Thị tộc là hình thức cộng đồng
người đầu tiên trong lịch sử.
Ngoài
đặc trưng chung về huyết thống là chủ yếu, thị tộc còn có những quan hệ
cộng đồng về ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng, văn hoá. Mỗi thị tộc có
khu vực cư trú, vùng săn bắt và tên gọi riêng.
Cơ
sở tồn tại về kinh tế của thị tộc là quyền sở hữu chung về tư liệu sản
xuất và tài sản. Họ cùng lao động và mọi sản phẩm được chia đều cho tất
cả các thành viên trong thị tộc.
Lãnh
đạo thị tộc là một hội đồng thị tộc đứng đầu là tộc trưởng được mọi
người bầu ra. Việc quản lý điều hành thị tộc dựa trên nghị quyết của hội
nghị thị tộc gồm các nam nữ thành viên trong thị tộc tôn kính và chấp
hành, sự điều khiển của tộc trưởng một cách tự nguyện.
1.2. Bộ lạc
Bộ
lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc do có quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong đó có một
thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. Đặc trưng của bộ lạc là có
cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán văn hoá tín ngưỡng và cùng chung sống
trên một vùng lãnh thổ. Mặc dù chưa thật sự ổn định nhưng việc xác lập
chủ quyền về mặt lãnh thổ là đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc.
Bộ
lạc có hình thức sở hữu cao hơn thị tộc. Ngoài sở hữu riêng của thị
tộc, bộ lạc còn có những sở hữu khác bao gồm vùng lãnh thổ, nơi trồng
trọt, săn bắt và chăn nuôi...
Lãnh
đạo bộ lạc là một hội đồng các tộc trưởng trong bộ lạc có một thủ lĩnh
tối cao nhưng mọi quyền hành quản lý bộ lạc đều do hội nghị của các hội
đồng và thủ lĩnh quân sự nhất định. Hình thức phát triển cao nhất của bộ
lạc là liên minh bộ lạc được hình thành từ sự liên kết nhiều bộ lạc .
Trong
xã hội nguyên thuỷ, bộ lạc là hình thức tốt nhất để phát triển sản
xuất. Chính trong thời kỳ này công cụ sản xuất bằng kim loại đã được
hình thành tạo nên hình thức phân công lao động xã hội đầu tiên giữa
trồng trọt và chăn nuôi, nông nghiệp với thủ công nghiệp. Đó là tiền đề
khách quan của sự xuất hiện sở hữu tư nhân. Dựa trên sở hữu tư nhân, bộ
tộc ra đời thay thế cho hình thức bộ lạc và liên minh các bộ lạc.
1.3. Bộ tộc
Bộ
tộc là cộng đồng dân cư được hình thành liên kết từ nhiều bộ lạc và
liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định. Bộ tộc đông
đảo hơn bộ lạc. Mỗi bộ tộc có tên gọi và có những đặc điểm kinh tế văn
hoá riêng. Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ tộc có vùng lãnh thổ tương đối
ổn định, dân cư đa dạng và đan xen, đa ngôn ngữ và văn hoá, trong đó
ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị trí trung tâm của sự giao lưu và phát
triển kinh tế sẽ trở thành ngôn ngữ chung của cả bộ tộc.
Thời
kỳ hình thành bộ tộc là thời kỳ đánh dấu sự tan rã hoàn toàn của xã hội
công xã nguyên thuỷ, sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời thay thế sở
hữu tập thể của thị tộc, bộ lạc. Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
có giai cấp đầu tiên được hình thành. Phạm vi thống trị của nhà nước có
thể không trùng với bộ tộc. Có nhà nước một bộ tộc cũng có nhà nước
nhiều bộ tộc, sắc tộc. Sự xuất hiện nhà nước đã góp phần rất quan trọng
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự thống nhất về
kinh tế và văn hoá, mở rộng giao lưu giữa các bộ tộc. Dưới tác động của
mối quan hệ mới, đặc biệt là quan hệ giao lưu về phát triển kinh tế,
khuôn khổ chật hẹp của bộ tộc không còn thích hợp cho sự phát triển.
Những nhân tố khách quan trên đây đã thúc đẩy quá trình hình thành một
cộng đồng người mới thay thế bộ tộc đó là sự xuất hiện dân tộc.
1.4. Dân tộc
Dân
tộc là một cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên
kết của tất cả các bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ. Cũng như bộ
tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai
cấp, có các thể chế chính trị và nhà nước.
Nếu
trong bộ tộc, các cộng đồng dân cư liên kết với nhau chưa dựa trên
những nguyên tắc pháp lý, chưa thực sự là một cộng đồng dân cư ổn định
và bền vững, thì ngược lại, dân tộc là một cộng đồng dân cư có tính
thống nhất cao, ổn định và tương đối bền vững dựa trên những nguyên tắc
pháp lý cao.
Do
đặc điểm phát triển của nền kinh tế thị trường, giai cấp tư sản ngày
càng xoá bỏ sự phân tán về tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư,
liên minh của các bộ tộc với những lợi ích, luật lệ với các vùng có cát
cứ lãnh thổ riêng, khác nhau đã phải nhường bước cho sự hình thành “... một dân tộc thống nhất có một chính phủ thống nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất, có tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất”.
Như vậy, dân tộc là một cộng đồng dân cư gồm có những đặc điểm chung thống nhất chặt chẽ :
- Thứ nhất,
cộng đồng về lãnh thổ. Lãnh thổ là sự biểu hiện cụ thể về mặt chủ quyền
của dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác, lãnh thổ bao
gồm chủ quyền cả về vùng đất, vùng trời và các hải đảo, thềm lục địa...
Trong một quốc gia nhiều dân tộc thì lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của
tất cả các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành. Chủ quyền quốc gia dân
tộc về lãnh thổ là kết quả lao động kiến tạo của cả một dân tộc trong
suốt quá trình hình thành dân tộc. Nó được thể chế bằng luật pháp quốc
gia và quốc tế. Lãnh thổ là chủ quyền không thể chia cắt, là nơi sinh
tồn phát triển và là nền tảng hình thành nên tổ quốc của mỗi quốc gia
dân tộc.
- Thứ hai,
cộng đồng về kinh tế. Cộng đồng chung về kinh tế là nhân tố chung bảo
đảm cho sự tồn tại và thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc. C.Mác và
Ph.Ăngghen chứng minh rằng động lực gắn kết các dân tộc thành một nhà
nước, một quốc gia thống nhất chính là yếu tố kinh tế. Trong mỗi dân tộc
thường tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội có lợi ích riêng,
khác nhau thậm chí đối lập nhau. Mặc dù vậy, trong sự khác biệt ấy vẫn
có những tương đồng nhất định về mặt lợi ích. Lịch sử cho thấy sự tương
đồng và phù hợp về mặt lợi ích càng lớn, tính thống nhất của dân tộc
càng cao, sự cách biệt về lợi ích giữa các dân tộc, bộ tộc càng cao,
nguy cơ tan rã dân tộc càng lớn. Một quốc gia thống nhất, một dân tộc
thống nhất phải được đảm bảo và dựa trên cơ sở cộng đồng chung về kinh
tế. Tính thống nhất, tính tương đồng và ổn định chung về kinh tế luôn
luôn là nhân tố bảo đảm cho sự thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc.
- Thứ ba,
cộng đồng về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất trong giao
tiếp của các dân tộc. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng của dân tộc
mình, nhưng trong một quốc gia nhiều dân tộc, bao giờ cũng có một ngôn
ngữ chung, thống nhất. Ngôn ngữ được chọn làm ngôn ngữ thống nhất thường
là sản phẩm và là kết quả tất yếu của một quá trình lâu đời về kinh tế -
xã hội của các dân tộc trong một quốc gia.
Xã
hội càng phát triển, ngôn ngữ càng phong phú. Một dân tộc có thể sử
dụng nhiều loại ngôn ngữ trong quan hệ và giao tiếp với các quốc gia dân
tộc khác, nhưng tiếng mẹ đẻ - ngôn ngữ chung của một dân tộc, một quốc
gia thống nhất là đặc trưng bản chất và là nhân tố kết nối các dân tộc
thành một quốc gia có chủ quyền. Ngôn ngữ là nền tảng văn hoá đồng thời
là di sản tinh thần của mỗi dân tộc.
- Thứ tư,
cộng đồng về văn hoá về tâm lý. Văn hoá là yếu tố đặc biệt trong sự gắn
kết cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất. Lịch sử phát triển văn
hoá của mỗi dân tộc rất đa dạng phong phú. Ngay từ thời nguyên thuỷ,
mỗi thị tộc, bộ lạc, bộ tộc có những điều kiện sinh sống riêng nên văn
hoá cũng có những sắc thái riêng. Văn hoá của một dân tộc phản ánh khái
quát tính đa dạng chung của các sắc thái dân tộc, các cộng đồng dân cư
trên cùng một vùng lãnh thổ. Đặc trưng chung của văn hoá dân tộc là
thống nhất trong tính đa dạng. Nó được chắt lọc, trải dài trong suốt
lịch sử đấu tranh để sinh tồn của mỗi dân tộc. Xã hội càng phát triển,
nhu cầu về văn hoá càng cao. Hơn thế nữa, văn hoá còn là động lực của sự
phát triển, là công cụ bảo vệ độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia. Đấu
tranh bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc phải được thể hiện thông qua
đấu tranh chống lại nguy cơ đồng hoá về văn hoá. Giao lưu văn hoá giữa
các dân tộc vừa là nhu cầu, vừa là động lực không thể thiếu được của sự
phát triển, Thông qua giao lưu về văn hoá, mỗi dân tộc tự nâng mình lên,
tự hoàn thiện mình nhờ học hỏi những tinh hoa văn hoá của dân tộc khác.
Trong
xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có những điều kiện vật chất riêng nên
văn hoá cũng không đồng nhất. Mặc dù vậy, các giai cấp, các lực lượng xã
hội ấy vẫn phải chịu sự tác động và chi phối bởi những yếu tố văn hoá
chung của cả cộng đồng. Mỗi dân tộc còn có tâm lý lối sống và những nét
tính cách riêng. Tâm lý và nét tính cách riêng của mỗi dân tộc trước hết
là sự phản ánh những điều kiện kinh tế, điều kiện địa lý, dân cư và nét
đặc thù văn hoá riêng của dân tộc ấy.
Cộng
đồng về lãnh thổ, cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về ngôn ngữ, về văn
hoá, tâm lý và tính cách là bốn đặc trưng không thể thiếu của mỗi dân
tộc. Đó chính là những yếu tố có mối quan hệ nội lực mạnh mẽ . Nó vừa
kết dính dân tộc thành một khối, vừa tạo ra động lực mạnh để liên kết và
phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc. Với những đặc trưng trên, dân tộc
hình thành thường gắn kết với quá trình hình thành và phát triển của
giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, song cũng có những dân tộc hình
thành không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Việt Nam và Triều
Tiên là một ví dụ .
Các
hình thức cộng đồng chung của dân tộc có vai trò rất to lớn đối với sự
phát triển của con người và xã hội. Dân tộc hình thành đã thực sự tạo ra
động lực cho sự phát triển. Đấu tranh chống lại sự nô dịch và áp bức
dân tộc chính là đấu tranh về sự phát triển và tiến bộ chung của toàn
nhân loại.
2. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
2.1. Giai cấp
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa : “Người
ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ [thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận] đối với những tư liệu sản xuất, về vai
trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về
cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm
đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Như
vậy, sự ra đời, tồn tại của các giai cấp gắn với những hệ thống sản
xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ
thống sản xuất là do:
Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội.
Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội .
Thứ ba, khác nhau về phương thức sản xuất và quy mô thu nhập những sản phẩm lao động của xã hội.
Trong
những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau của họ về sở hữu đối với tư
liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng quyết định nhất. Tập đoàn người nào
nắm tư liệu sản xuất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu
sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động của các tập đoàn khác. Đó là bản
chất của những xung đột giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng.
Trong
các xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị trị còn
có những tầng lớp và giai cấp trung gian khác. Bộ phận này không có vị
trí cơ bản trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hoá. Nhân
tố chi phối sự phân hoá của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các
giai cấp và tầng lớp trung gian ngả về phía giai cấp thống trị hay bị
trị là tuỳ thuộc vào vị trí lợi ích của họ.
Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử. Nó luôn luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.
2. 2. Nguồn gốc hình thành giai cấp
Trong
xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt
bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân
tộc... Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội.
Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới
tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong
xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao
động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để
tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào
tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện.
Sản
xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng
suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể phân công lao động nhờ đó từng
bước được hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức
quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của
riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội
bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Do
có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không
bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có
địa vị trong xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự
xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời
giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô
nệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát
triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh
tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát
triển xã hội. Đó là lôgic khách quan trong tiến trình phát triển của
lịch sử.
2.3. Kết cấu xã hội - giai cấp.
Các
xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế lẫn nhau trong lịch sử.
Mỗi kiểu xã hội có kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu
xã hội - giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản
đối lập nhau. Đó là chủ nô và nô nệ trong chế độ nô nệ, địa chủ và nông
nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ
nghĩa. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là là sản
phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, đồng thời là giai cấp
quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội
đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ
kinh tế - xã hội đang tồn tại.
Ngoài
hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn bao gồm một số
tầng lớp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập đoàn xã
hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ[ như nô lệ
trong buổi đầu của xã hội phong kiến], có tập đoàn là mầm mống của
phương thức sản xuất trong tương lai [như giai cấp tư sản và giai cấp
công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong
kiến]. Ngoài ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp
trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là
kết quả của quá trình phân hoá xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội.
Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản
thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Xã hội có giai cấp nào cũng
tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hoá, đó là tầng lớp trí thức.
2.4. Đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là “cuộc
đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động,
chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống
những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực
chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về
mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai
cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc
lột.
Đấu
tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã
hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện
xã hội: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện
cho phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị bóc lột
đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
2.5. Đấu tranh giai cấp - một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp
Đỉnh
cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội,
thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến
bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát
triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy
sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển
của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đỉnh cao của đấu tranh
giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi
các hình thái kinh tế xã hội vì vậy “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
Đấu
tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời
cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho
phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu
mà loài người dạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản
xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã
hội không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ
chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu
tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau
cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất
so với so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục
tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước
khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng,
đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng
thay đổi. V.I.Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những
hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như
trước được”.
Trong
cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng mọi nguồn
lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu
tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính
quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm
tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế
độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ,
văn minh. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi
cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản.
Ở
Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là
một tất yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và
điều kiện mới của xu hướng quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có
những đặc điểm riêng.
Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng,
hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ của cả nước ta còn tồn tại một cách
khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp ở
nước ta hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện
mới với những nội dung mới và hình thức mới. Bởi vì cùng với những biến
đổi to lớn về kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai
cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, khác với thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công
nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dân, giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa
hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột
chống nghèo nàn lạc hậu đấu tranh chống tình trạng đói nghèo, kém phát
triển. Vì vậy, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước
nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất
công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu
cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá
của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời Đảng
ta cũng khẳng định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế,
của toàn xã hội .
3. Quan hệ giai cấp - dân tộc và giai cấp - nhân loại
3.1. Quan hệ giai cấp - dân tộc
Trong
một cộng đồng dân tộc bao giờ cũng có nhiều giai cấp và các tầng lớp xã
hội khác nhau cùng chung sống. Lợi ích dân tộc là lợi ích chung của tất
cả các giai cấp, các lực lượng xã hội sống trong cộng đồng ấy. Mỗi một
giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, giai cấp nào có lợi ích gắn
liền với phương thức sản xuất thống trị sẽ trở thành lực lượng tiêu biểu
và lãnh đạo dân tộc.
Tuy
nhiên, trong xã hội và những phương thức sản xuất tồn tại dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản suất, lợi ích của giai cấp thống trị
và lợi ích của dân tộc không phải khi nào cũng thống nhất, thậm chí
nhiều lúc trái ngược và đối lập với lợi ích dân tộc. Trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, phương thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, lực lượng sản xuất thuộc về quyền sở hữu chung của cả xã hội, khi
ấy lợi ích giai cấp cơ bản phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng dân
tộc. Đương nhiên, sự phù hợp thể hiện trong quá trình giải quyết đúng
đắn các mâu thuẫn. Ngày nay, khi trong xã hội còn giai cấp đối kháng và
đấu tranh giai cấp thì vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được giải
quyết trên lập trường giai cấp nhất định.
3. 2. Quan hệ giai cấp và nhân loại
Vấn
đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của
cả loài người, chẳng hạn những vấn đề chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ
môi trường, vấn đề dân số, chống các loại dịch bệnh đe dọa sự sống còn
của cả nhân loại. Lợi ích nhân loại là những nhân tố đáp ứng yêu cầu
phát triển của loài người mọi quốc gia, không phân biệt sự khác nhau về
giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Tuy
nhiên trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại là không tách rời với
lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và do đó nó bị chi phối bởi lợi ích
giai cấp.
Lợi
ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích nhân loại. Các giai cấp
phản động thì lợi ích của giai cấp về căn bản mâu thuẫn với lợi ích
chung của dân tộc và lợi ích toàn nhân loại.
Chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng muốn giải phóng mình, giai cấp vô sản
phải giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư
bản. Vì vậy, lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp với
lợi ích của nhân loại.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích định nghĩa giai cấp của Lênin.
2. Đấu tranh giai cấp là gì? Các hình thức cơ bản của đấu tranh giai cấp?
3. Phân tích mối quan hệ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc lợi ích nhân loại trong thời đại hiện nay.
4. Quan điểm của Đảng ta về đặc điểm đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay? |