Hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa

Trên lâm sàng hiện nay, có rất nhiều loại thuốc mà đường hấp thu chủ yếu qua hệ tiêu hóa của con người, vì đây là đường hấp thu tự nhiên và dễ sử dụng nhất. Tuy nhiên, hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa cũng có một số ưu, nhược điểm nhất định mà người bệnh cần lưu ý để sử dụng thuốc hiệu quả nhất có thể.

Sự hấp thu thuốc trong cơ thể người bệnh được xác định bởi những đặc tính về hóa học, vật lý cũng nhưng đường đưa vào của những loại thuốc nhất định. Các dạng bào chế của thuốc hiện nay như viên nén, viên nang, dung dịch... gồm thuốc và những tá dược khác và được đưa vào cơ thể bằng nhiều con đường khác nhau như: uống thuốc, ngậm, ngậm dưới lưỡi, đặt trực tràng, tiêm tĩnh mạch, bôi ngoài da, hít vào mũi hay miệng... Cho dù thuốc được đưa vào bất cứ con đường nào thì cũng cần được chuyển thành dạng dung dịch, có như thế cơ thể mới hấp thu được.

Đối với việc hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa, những loại thuốc sau khi đưa vào cơ thể phải tồn tại ở môi trường có pH thấp cũng như có rất nhiều chất bài tiết đường tiêu hóa, bao gồm cả những enzym phân hủy. Một số loại thuốc có bản chất là peptide như thuốc Insulin sẽ dễ bị thoái hóa và không sử dụng được bằng đường uống, vì vậy thường được hấp thu tốt hơn khi tiêm.

Về cơ bản sự hấp thu thuốc qua đường uống sẽ liên quan chặt chẽ với sự vận chuyển qua màng tế bào của thuốc trong biểu mô hệ thống tiêu hóa. Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến quá trình hấp thu thuốc tại ruột non đó là:

  • Sự chênh lệch độ pH dọc theo đường tiêu hóa
  • Diện tích bề mặt
  • Truyền máu
  • Mật đường tiêu hóa và các chất nhầy
  • Bản chất của biểu mô đường tiêu hóa

Đối với việc hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa, những loại thuốc sau khi đưa vào cơ thể phải tồn tại ở môi trường có pH thấp cũng như có rất nhiều chất bài tiết đường tiêu hóa

Một số đặc điểm quan trong trong quá trình hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa đó là niêm mạc miệng của con người thường có lớp biểu mô mỏng, giàu mạch máu nên có khả năng giúp thuốc hấp thu dễ dàng, tuy nhiên vì độ dài quá ngắn nên lượng thuốc hấp thu không đáng kể. Vì vậy, phương pháp ngậm thuốc giữa nướu và má hay ngậm dưới lưỡi giúp thuốc được giữ tại niêm mạc miệng lâu hơn, từ đó tăng cường hấp thu thuốc.

Dạ dày được xem là cơ quan đầu tiên diễn ra sự tiếp xúc mạnh mẽ giữa thuốc uống và dịch tiêu hóa. Dạ dày là cơ quan có lớp biểu mô dày và thời gian vận chuyển thuốc tương đối ngắn nên vẫn gây ra những hạn chế trong việc hấp thu thuốc, khiến thuốc không đạt được hiệu quả điều trị tối đa. Vì thuốc chủ yếu được hấp thu tại ruột non, nên giai đoạn thuốc ở dạ dày cần được giới hạn tốc độ di chuyển của thuốc bằng việc làm rỗng dạ dày. Khi ăn những thức ăn có nhiều chất béo, quá trình làm rỗng dạ dày sẽ bị làm chậm lại, đó là nguyên nhân tại sao một số loại thuốc dùng khi bụng đói sẽ làm tăng tốc độ hấp thu. Ngoài ra, một số loại thuốc cũng ảnh hưởng đến quá trình làm rỗng dạ dày đó là thuốc chống phó giao cảm và làm ảnh hưởng đến hoạt động của những loại thuốc khác. Thức ăn cũng giúp tăng cường sự hấp thu đối với những thuốc có khả năng hòa tan kém cũng như làm giảm sự hấp thu với những thuốc bị phân hủy trong dạ dày như Penicillin G.

Ruột non là nơi có diện tích bề mặt lớn nhất giúp thuốc được hấp thu nhiều nhất tại đây, và màng của ruột non cũng giúp thuốc dễ thấm hơn so với màng trong dạ dày. Vì lý do này, sự hấp thu thuốc tại ruột non là phổ biến nhất trong cơ thể, kể cả những thuốc không ion hóa dễ dàng để có thể qua màng ruột non nhưng vẫn hiệu quả và nhanh chóng hơn khi hấp thu tại dạ dày.

Sự hấp thu thuốc tại ruột non là phổ biến nhất trong cơ thể

Sự hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa diễn ra qua nhiều giai đoạn và tại nhiều cấu trúc khác nhau của ống tiêu hóa. Vì đặc điểm giải phẫu và tính chất hóa lý khác nhau của từng cơ quan nên việc hấp thu thuốc cũng khác nhau tại nhiều thời điểm, trong đó việc hấp thu thuốc tại ruột non là diễn ra hiệu quả và nhanh chóng nhất.

Vì mỗi loại thuốc có cách hoạt động và cơ chế hấp thụ khác nhau nên để đảm bảo dùng thuốc được an toàn, đạt được hiệu quả nhất định, trước khi dùng những loại thuốc kê đơn hay không kê đơn bệnh nhân nên tham khảo ý kiến của các bác sĩ, dược sĩ. Việc dùng thuốc đúng chỉ dẫn luôn mang đến kết quả tốt nhất về mặt sức khỏe.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY. Ngoài ra, Quý khách có thể Đăng ký tư vấn từ xa TẠI ĐÂY

Nguồn tham khảo: Bệnh viện Vinmec

Hấp thu là sự vận chuyển thuốc từ nơi dùng thuốc [uống, tiêm] vào máu để rồi đi khắp cơ thể, tới nơi tác dụng. Như vậy sự hấp thu sẽ phụ thuộc vào:

Độ hòa tan của thuốc. Thuốc dùng dưới dạng dung dịch nước dễ hấp thu hơn dạng dầu, dịch treo hoặc dạng cứng.

pH tại chỗ hấp thu vì có ảnh hưởng đến độ ion hóa và độ tan của thuốc.

Nồng độ của thuốc. Nồng độ càng cao càng hấp thu nhanh.

Tuần hoàn tại vùng hấp thu: càng nhiều mạch, càng hấp thu nhanh.

Diện tích vùng hấp thu. Phổi, niêm mạc ruột có diện tích lớn, hấp thu nhanh.

Từ những yếu tố đó cho thấy đường đưa thuốc vào cơ thể sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu.

Ngoại trừ đường tiêm tĩnh mạch, trong quá trình hấp thu vào vòng tuần hoàn, một phần thuốc sẽ bị phá huỷ do các enzym của đường tiêu hóa, của tế bào ruột và đặc biệt là ở gan, nơi có ái lực với nhiều thuốc. Phần thuốc bị phá huỷ trước khi vào vòng tuần hoàn được gọi là  "first pass metabolism" [chuyển hóa do hấp thu hay chuyển hóa qua gan lần thứ nhất vì thường là uống thuốc]. Phần vào được tuần hoàn mới phát huy tác dụng dược lý, được gọi là  sinh khả dụng [bioavailability] của thuốc.

Sau đây sẽ điểm qua các đường dùng thuốc thông thường v à các đặc điểm của chúng.

Hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa

Ưu điểm là dễ dùng vì là đường hấp thu tự nhiên.

Nhược điểm là bị các enzym tiêu hóa phá huỷ hoặc thuốc tạo phức với thức ăn làm chậm hấp thu. Đôi khi thuốc kích thích niêm mạc tiêu hóa, gây viêm loét

Hấp thu qua niêm mạc miệng: thuốc ngậm dưới lưỡi

Do thuốc vào thẳng vòng tuần hoàn nên không bị dịch vị phá huỷ, không bị chuyển hóa qua gan lần thứ nhất

Thuốc uống

Thuốc sẽ qua dạ dày và qua ruột với các đặc điểm sau:

Ở dạ dày:

Có pH = 1- 3 nên chỉ hấp thu các acid yếu, ít bị ion hóa, như aspirin, phenylbutazon, barbiturat.

Nói chung ít hấp thu vì niêm mạc ít mạch máu, lại chứa nhiều cholesterol, thời gian thuốc ở dạ dày không lâu.

Khi đói hấp thu nhanh hơn, nhưng dễ bị kích thích.

Ở ruột non:

Là nơi hấp thu chủ yếu vì có diện tích hấp thu rất rộng [> 40 m 2], lại được tưới máu nhiều, pH tăng dần tới base [pH từ 6 đến 8].

Thuốc ít bị ion hóa nhưng nếu ít hoặc không tan trong lipid [sulfaguanidin, streptomycin] thì ít được hấp thu.

Thuốc mang amin bậc 4 sẽ bị ion hóa mạnh khó hấp thu, thí dụ các loại cura.

Các anion sulfat SO4- - không được hấp thu: MgSO4, Na2SO4 chỉ có tác dụng tẩy.

Thuốc đặt trực tràng

Khi không dùng đường uống được [do nôn, do hôn mê, hoặc ở trẻ em] thì có dạ ng thuốc đặt vào hậu môn. Không bị enzym tiêu hóa phá huỷ, khoảng 50% thuốc hấp thu qua trực tràng sẽ qua gan, chịu chuyển hóa ban đầu.

Nhược điểm là hấp thu không hoàn toàn và có thể gây kích ứng niêm mạc hậu môn.

Thuốc tiêm

Tiêm dưới da: do có nhiều sợi thần kinh cảm giác nên đau, ít mạch máu nên thuốc hấp thu chậm.

Tiêm bắp: khắc phục được hai nhược điểm trên của tiêm dưới da - một số thuốc có thể gây hoại tử cơ như ouabain, calci clorid thì không được tiêm bắp.

Tiêm tĩnh mạch: thuốc hấp thu nhanh, hoàn toàn, có thể điều chỉnh liều được nhanh. Dùng tiêm các dung dịch nước hoặc các chất kích ứng không tiêm bắp được vì lòng mạch ít nhạy cảm và máu pha loãng thuốc nhanh nếu tiêm chậm.

Thuốc tan trong dầu, thuốc làm kết tủa các thành phần của máu h ay thuốc làm tan hồng cầu đều không được tiêm mạch máu.

Thuốc dùng ngoài

Thấm qua niêm mạc: thuốc có thể bôi, nhỏ giọt vào niêm mạc mũi, họng, âm đạo, bàng quang để điều trị tại chỗ. Đôi khi, do thuốc thấm nhanh, lại trực tiếp vào máu, không bị c ác enzym phá huỷ trong quá trình hấp thu nên vẫn có tác dụng toàn thân: ADH dạng bột xông mũi; thuốc tê [lidocain, cocain] bôi tại chỗ, có thể hấp thu, gây độc toàn thân.

Qua da: ít thuốc có thể thấm qua được da lành. Các thuốc dùng ngoài [thuốc mỡ, thuố c xoa bóp, cao dán] có tác dụng nông tại chỗ để sát khuẩn, chống nấm, giảm đau.

Tuy nhiên, khi da bị tổn thương, viêm nhiễm, bỏng... thuốc có thể được hấp thu. Một số chất độc dễ tan trong mỡ có thể thấm qua da gây độc toàn thân [thuốc trừ sâu lân hữu cơ,  chất độc công nghiệp anilin].

Giữ ẩm nơi bôi thuốc [băng ép], xoa bóp, dùng thuốc giãn mạch tại chỗ, dùng phương pháp ion -
di [iontophoresis] đều làm tăng ngấm thuốc qua da.

Hiện có dạng thuốc cao dán mới, làm giải phóng thuốc chậm và đều qua da, duy trì đư ợc lượng thuốc ổn định trong máu: cao dán scopolamin, estrogen, nitrit.

Da trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, có lớp sừng mỏng manh, tính thấm mạnh, dễ bị kích ứng cho nên cần thận trọng khi sử dụng, hạn chế diện tích bôi thuốc.

Thuốc nhỏ mắt: chủ yếu là tác dụng tạ i chỗ. Khi thuốc chảy qua ống mũi - lệ để xuống niêm mạc mũi, thuốc có thể được hấp thu trực tiếp vào máu, gây tác dụng không mong muốn.

Các đường khác

Qua phổi: các chất khí và các thuốc bay hơi có thể được hấp thu qua các tế bào biểu mô phế nang, niêm mạc đường hô hấp. Vì diện tích rộng [80 - 100 m2] nên hấp thu nhanh. Đây là đường hấp thu và thải trừ chính của thuốc mê hơi. Sự hấp thu phụ thuộc vào nồng độ thuốc mê trong không khí thở vào, sự thông khí hô hấp, độ hòa tan của thuốc mê trong máu.

Một số thuốc có thể dùng dưới dạng phun sương để điều trị tại chỗ [hen phế quản].

Tiêm tuỷ sống: thường tiêm vào khoang dưới nhện hoặc ngoài màng cứng để gây tê vùng thấp
[chi dưới, khung chậu] bằng dung dịch có tỷ trọng cao [hyperbaric solution] hơn dịch não tuỷ.

Thông số dược đông học của sự hấp thu: sinh khả dụng [F]

Định nghĩa

Sinh khả dụng F [bioavailability] là tỷ lệ phần trăm lượng thuốc vào được vòng tuần hoàn ở dạng còn hoạt tính và vận tốc hấp thu thuốc [biểu hiện qua Cmax và Tmax] so với liều đã dùng. Sinh khả dụng phản ánh sự hấp thu thuốc.

Ý nghĩa

Khi thay đổi tá dược, cách bào chế thuốc sẽ làm thay đổi độ hòa tan của thuốc [hoạt chất] và làm thay đổi F của thuốc. Như vậy, 2 dạng bào ch ế của cùng một sản phẩm có thể có 2 sinh khả dụng khác nhau. Khái niệm tương đương sinh học [bioequivalence] dùng để so sánh các F của các dạng bào chế khác nhau của 1 hoạt chất: F 1/F2.

Khi thay đổi cấu trúc hóa học, có thể làm F thay đổi: Ampicilin có F = 50%

Amoxicilin [gắn thêm nhóm OH] có F = 95%.

Sự chuyển hóa thuốc khi qua gan lần thứ nhất, hay chuyển hóa trước khi vào tuần hoàn [first pass metabolism] làm giảm sinh khả dụng của thuốc. Song đôi khi vì thuốc qua gan lại có thể được chuyển hóa thành chất có hoạt tính nên tuy sinh khả dụng của đường uống là thấp nhưng tác dụng dược lý lại không kém đường tiêm chích tĩnh mạch. Thí dụ propranolol có sinh khả dụng theo đường uống là 30% nhưng ở gan nó được chuyển hóa thành 4 - OH propranolol vẫn có hoạt tính như propranolol.

Các yếu tố làm thay đổi F do người dùng thuốc:

Thức ăn làm thay đổi pH hoặc nhu động của đường tiêu hóa. . Tuổi [trẻ em, người già]: thay đổi hoạt động của các enzym. . Tình trạng bệnh lý: táo bón, tiêu chảy, suy gan.

Tương tác thuốc: hai thuốc có thể tranh chấp tại nơi hấp thu hoặc làm thay đổi độ tan, độ phân ly của nhau.

Video liên quan

Chủ Đề