Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương có quyết định quan trọng nào sau đây

Đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách. Theo thỏa thuận giữa các nước đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch vào đóng tại miền Bắc, quân Anh (theo sau là quân Pháp) vào đóng tại miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật (lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới), nhưng đều nuôi dưỡng ý đồ tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền phản động tay sai. Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng: Sản xuất trì trệ, ngân khố quốc gia trống rỗng, nạn đói năm 1945 làm gần 2 triệu người chết chưa khắc phục xong, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn rất phổ biến, các thế lực phản động ra sức hoạt động chống phá... "Giặc đói", "giặc dốt", "giặc ngoại xâm" đang đe dọa, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc".

Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân đội Anh, thực dân Pháp tiến công Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Tiếp đó, từ tháng 10/1945 - 1/1946, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm nhiều địa bàn quan trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, từng bước thiết lập hệ thống kìm kẹp tại cơ sở. Trong bối cảnh đó, để tránh phải đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một mặt nhân nhượng cho quân đội Tưởng Giới Thạch một số quyền lợi ở miền Bắc (nhận cung cấp lương thực, nhận tiêu tiền "quan kim", "quốc tệ" đã mất giá...), mặt khác kiên quyết phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, đưa hàng vạn cán bộ, chiến sĩ vào Nam chiến đấu, trực tiếp góp phần làm thất bại âm mưu "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp.

Do gặp khó khăn ở chiến trường miền Nam, thực dân Pháp không đủ khả năng đánh chiếm ngay miền Bắc, buộc phải đàm phán với Tưởng Giới Thạch hòng tìm bước đi thích hợp. Cuối tháng 2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết. Theo đó, thực dân Pháp nhượng bộ cho Tưởng Giới Thạch một số quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa... Ngược lại, quân Pháp sẽ ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất là chờ viện binh phát động chiến tranh. Để nhanh chóng gạt quân Tưởng về nước, đồng thời có thêm điều kiện chuẩn bị tiềm lực, ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ Pháp (Xanhtơni) bản Hiệp định sơ bộ, chấp thuận cho quân Pháp ra miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Tiếp đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước nhượng bộ cho Pháp thêm một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam. Tranh thủ thời gian hòa hoãn, nhân dân ta ra sức xây dựng lực lượng. Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra sắc lệnh quy định Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội quốc gia nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra, cách mạng còn có gần 1 triệu đội viên thuộc lực lượng dân quân tự vệ khắp cả nước, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh suốt chặng đường về sau.

Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.

Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do. Ngày 18 và ngày 19/12/1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiều ngày 19/12/1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày và giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. Khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, quân dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, trong đó Người khẳng định rõ: "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!"…

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương có quyết định quan trọng nào sau đây

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp cả nước. Đó là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, quân dân ta tại các thành phố, thị xã ở Bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng đánh địch. Chiến sự diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt là trong các thành phố lớn. Ngay tại Thủ đô Hà Nội, dù lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ chống lại kẻ địch tinh nhuệ được trang bị hiện đại, nhưng với tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh", đồng bào, chiến sĩ ta vẫn kiên cường bám trụ, giành nhau với địch từng căn nhà, từng góc phố. Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng với ý chí sục sôi, niềm tin tất thắng. Trải qua gần 2 tháng liên tục chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu hao, giam chân địch trong thành phố, tạo điều kiện di chuyển các cơ quan, kho tàng, tổ chức nhân dân tản cư về vùng căn cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài, lực lượng ta rút về hậu phương an toàn.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên cơ sở đường lối đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp, với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genevơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Và 21 năm sau, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã cắm lá cờ trên nóc Dinh độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đem lại độc lập thống nhất toàn vẹn cho đất nước.

Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta sau ngày 30/4/1975 đã đạt được những thành tự to lớn, quan trọng, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội của đất nước.

Kỷ niệm 75 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến là dịp để chúng ta ôn lại và càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946); phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của đại dịch Covid-19 và thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Thanh Sang

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương có quyết định quan trọng nào sau đây
Bài đăng Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán trên báo Dân ý.

(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự ý giải tán” nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Với mô hình một đảng duy nhất cầm quyền, việc Đảng “giải tán” có thể nói là quyết định táo bạo, khôn khéo và cần thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Giải thích rõ hơn về sự kiện quan trọng này, tại Đại hội toàn quốc lần thứ II (diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Lúc này, Đảng ta không thể do dự, Đảng phải quyết đoán mau lẹ, phải sử dụng những biện pháp, dù là biện pháp đau đớn để cứu vãn tình thế.

Tại thời điểm Đảng lui vào hoạt động bí mật, chính quyền mới chỉ vừa thành lập được 2 tháng và phải đối mặt với tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, vừa củng cố lực lượng, khôi phục sản xuất, vừa chống thù trong, giặc ngoài. Một trong những lý do “giải tán” được Đảng Cộng sản Đông Dương nêu trên báo Dân ý năm 1945, là “để phá tan tất cả những hiểu nhầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà”. Thực tế, sau Cách mạng tháng Tám, theo chân quân Tưởng vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, hai đảng phái chính trị Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) từ nước ngoài trở về Việt Nam. Chúng ra mặt công khai chống phá chính quyền mới. Xét mối tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc bấy giờ, việc đưa Đảng vào hoạt động bí mật là biện pháp cần thiết để bảo vệ hệ thống tổ chức đảng, tránh mũi nhọn chống phá, khủng bố của kẻ thù.

Không chỉ là hạn chế đến mức thấp nhất tình cảnh bị tấn công, đây là sách lược tình thế mang tính nhân nhượng, hòa hoãn. Chính quyền mới của ta có thêm thời gian để giải quyết những vấn đề cấp bách hơn như giặc đói, giặc dốt… Sách lược nhân nhượng được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh áp dụng triệt để trong 2 năm 1945 và 1946, tiêu biểu là việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Người từng căn dặn các cán bộ rằng: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”, tức là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tuy nhiên, “nhân nhượng có nguyên tắc”. Việc Đảng rút vào hoạt động bí mật cũng là một phần của “nhân nhượng có nguyên tắc” đó.

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương có quyết định quan trọng nào sau đây
Tiếp nối sứ mệnh của tờ Cờ Giải phóng, báo Sự thật (1945 - 1951) trở thành cơ quan ngôn luận của Đảng dưới danh nghĩa là cơ quan ngôn luận của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. (Ảnh tư liệu)

Tiếp theo, việc rút vào hoạt động bán công khai giúp cho Đảng thuận lợi hơn trong việc kêu gọi nhiều thành phần trong xã hội hình thành khối đại đoàn kết dân tộc. Trong Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng xác định: “Đảng phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành lập đảng đoàn trong các cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội”.

Thực hiện đúng theo định hướng, năm 1946 - 1950, dưới danh nghĩa của “hội”, “đoàn thể”, Đảng tiếp tục thực hiện vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc và ghi nhận những thành công quan trọng.

Về tuyên truyền tư tưởng cách mạng, sau khi “tự ý giải tán”, Đảng cho ra đời Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Đây là nơi công khai tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin và đường lối, chủ trương của Đảng. Ngày 5/12/1945, tờ Sự thật xuất bản số đầu tiên dưới danh nghĩa công khai là cơ quan ngôn luận của Hội, nhưng thực tế tiếp nối sứ mệnh là cơ quan ngôn luận của Đảng thay cho tờ Cờ Giải phóng.

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương có quyết định quan trọng nào sau đây
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (từ ngày 11 đến 19/2/1951), Đảng ra hoạt động công khai với tên Đảng Lao động Việt Nam. (Ảnh tư liệu)

Cùng ngày, lấy vai trò của những người mác xít Đông Dương, Đảng đã gửi thư ngỏ tới Việt Nam Quốc dân đảng trong nhóm “Việt Nam”. Theo đó, Đảng bóc trần những luận điệu tuyên truyền lừa bịp, hô hào “vì dân, vì nước, đoàn kết, hợp tác”; những hành động “phản dân, hại nước” của bọn phản động tự xưng là “những người cách mạng hải ngoại”[1]. Với quan điểm “vận mệnh nước nhà định đoạt trong giờ phút này”, thư ngỏ đanh thép khẳng định: “Chúng ta làm một việc, nói một lời, đều phải hết sức thận trọng. Nên phải đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên hết thảy. Nếu vì danh vọng và địa vị của cá nhân mình hay đảng phái mình mà di hại cho Tổ quốc thì nhất định chúng ta phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, mang tội với đồng bào”. Nhân dịp này, Đảng của kêu gọi đoàn kết các đảng phái, đoàn thể người Việt yêu nước vào “Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”.

Về phát triển lực lượng, Đảng tập hợp đã được nhiều thành phần tham gia vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Số đảng viên vì thế mà tăng nhanh chóng. Tại thời điểm lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, Đảng chỉ có hơn 5.000 đảng viên, đến cuối năm 1945, số đảng viên đã là 20.000. Vào thời điểm diễn ra Đại hội II (tháng 2/1951), số đảng viên đã lên hơn 766.000. Như vậy, sau 6 năm, số đảng viên đã tăng hơn 153 lần so với Cách mạng tháng Tám và tăng hơn 38 lần so với cuối năm 1945. Ngoài ra, hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương xuống các địa phương được củng cố và xây dựng.

Về lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc, dù hoạt động nửa công khai, nhưng dưới sự chỉ đạo của Đảng, chính quyền cách mạng đã gặt hái được những kết quả quan trọng, thể hiện rõ nhất là trong củng cố chính quyền mới, cơ bản giải quyết nạn đói, nạn dốt… Dưới sự chỉ đạo linh hoạt, mềm dẻo, chúng ta đã ký Hiệp định Sơ bộ, Tạm ước để có thêm thời gian xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài với thực dân Pháp.

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương có quyết định quan trọng nào sau đây
Báo Cứu quốc đăng bài chào mừng và tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam khi ra hoạt động công khai năm 1951. (Ảnh tư liệu)

Ngày 19/12/1946, toàn quốc chính thức bước vào cuộc chiến trường kỳ suốt 9 năm với thực dân Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, quân dân ta giành được những chiến thắng quan trọng trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch; chiến thắng chiến dịch Biên giới năm 1950 khai thông biên giới Việt - Trung, căn cứ Việt Bắc được củng cố và mở rộng. Hai thắng lợi quan trọng này giúp cho cuộc kháng chiến chống Pháp bước sang giai đoạn mới. Bối cảnh này đòi hỏi mỗi quốc gia cần có một chính đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng riêng biệt và phù hợp với từng quốc gia.

Mốc lịch sử trọng đại gắn liền với Đảng Cộng sản Đông Dương chính là Đại hội lần thứ II (năm 1951), từ bí mật, Đảng trở lại hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam. Trong suốt 21 năm hoạt động (từ năm 1930 đến năm 1951), Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn thành tốt sứ mệnh của tổ chức lãnh đạo cách mạng 3 nước anh em Việt Nam, Lào, Campuchia. Hoạt động công khai với tên gọi mới, Đảng Lao động Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Trong giai đoạn này, Đảng xác định xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân ta liên tục giành những thành tựu quan trọng, đưa đến thắng lợi cuối cùng là thống nhất đất nước vào năm 1975. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV tổ chức vào tháng 12/1976, Đảng Lao động Việt Nam được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam - tên gọi khai sinh vào ngày 3/2/1930.

Trong bài viết Chuyện Đảng tuyên bố “tự ý giải tán”, kế sách khéo léo trước kẻ thù đăng trên báo Dân Việt ngày 3/2/2020, PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), nhận định: Đảng Cộng sản Đông Dương “tự ý giải tán” là “kế sách rất khôn khéo, linh hoạt của Đảng và Hồ Chủ tịch”. Những thành quả cách mạng từ năm 1945 đến năm 1975 chứng minh cho quyết định rút Đảng vào hoạt động bí mật là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của lịch sử. Sự “khôn khéo”, “linh hoạt” đó một lần nữa khẳng định biệt tài ứng dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh…

Nguyễn Trần Hồng Diễm

__________________

[1] Thời điểm này, bọn phản động chủ yếu dựa vào quân đội Tưởng Giới Thạch. Với việc ra báo Việt Nam, Thiết thực, Đồng tâm, chúng rải truyền đơn công kích Chính phủ, gây hoang mang lòng dân nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, đồng thời chúng tiến hành bắt cóc cán bộ tống tiền, ám sát…

Tin liên quan