Nghiên cứu và phát triển sản phẩm của VISSAN

Qua hơn 50 năm dựng xây và phát triển, Công ty CP Việt Nam Kỹ nghệ súc sản (Vissan) hôm nay đã vươn lên trở thành một trong những doanh nghiệp dẫn đầu ngành thực phẩm Việt Nam và là "điểm sáng" trong triển khai thực hiện các chương trình, mục tiêu kinh tế - xã hội của Tp.HCM nói riêng - cả nước nói chung. Đây cũng chính là bệ phóng vững chắc để Vissan tiếp tục vươn tầm vóc mới, hiện thực hóa khát vọng trở thành thương hiệu thực phẩm hàng đầu tại Việt Nam và mạnh mẽ vươn ra quốc tế.

Bền bỉ sứ mệnh

Năm 2020 trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp kinh doanh ngành thực phẩm tươi sống do bị tác động bởi dịch Covid-19 và dịch tả heo Châu Phi, nhưng lãnh đạo và người lao động Vissan đã có nhiều giải pháp trong công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19, kiểm soát chặt chẽ dịch tả heo Châu Phi; chủ động nguồn cung ứng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh hiệu quả. Nhờ vậy mà trong năm qua doanh thu toàn Công ty vẫn đạt 5.168 tỷ đồng - mức cao nhất trong lịch sử hơn 50 năm phát triển của Vissan; lợi nhuận trước thuế 205 tỷ đồng.

Trong năm nay, Vissan đặt mục tiêu tổng doanh thu đạt 5.100 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 180 tỷ đồng, sản lượng thực phẩm tươi sống đạt 18.552 tấn, thực phẩm chế biến đạt 30.350 tấn.

Hơn 50 năm phát triển là chừng đó thời gian Vissan bền bỉ đồng hành mang đến những bữa ăn ngon, giàu dinh dưỡng và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho hàng triệu gia đình Việt. Để bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng trong bối cảnh thực phẩm bẩn đang lan tràn, Vissan dành ưu tiên hàng đầu cho cải tiến quy trình để nâng cao hiệu quả, chất lượng sản phẩm. Tất cả các sản phẩm của Công ty đều được sản xuất theo quy trình liên kết khép kín bằng hệ thống máy móc - trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến; hướng đến hoàn thiện chuỗi cung ứng thực phẩm sạch, an toàn bền vững "từ trang trại đến bàn ăn" (3F), đảm bảo chất lượng ở cả ba khâu quan trọng của quá trình tạo ra thực phẩm bao gồm: thức ăn chăn nuôi (Feed), môi trường - kỹ thuật chăm sóc (Farm), chế biến (Food). Thông qua mô hình này đã giúp Vissan kiểm soát chặt chẽ từ nguồn nguyên liệu đầu vào cho đến thành phẩm ra thị trường, góp phần phục vụ lợi ích cộng đồng và bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Đặc biệt đối với thực phẩm chế biến, Công ty không ngừng nghiên cứu, phát triển và đưa ra thị trường các sản phẩm mới; thường xuyên khảo sát xu hướng ăn uống của người tiêu dùng để phát triển các sản phẩm tiện lợi trên cơ sở vẫn đảm bảo các tiêu chí chất lượng, dinh dưỡng, an toàn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, được đông đảo người tiêu dùng tin tưởng ủng hộ.

Tính đến thời điểm hiện tại, sản phẩm của Vissan đã có mặt khắp 63 tỉnh, thành trên toàn quốc; được phân phối và bày bán tại hầu hết các hệ thống siêu thị trên cả nước, các cửa hàng tiện lợi, trung tâm thương mại, chợ truyền thống…; trong đó có các hệ thống siêu thị lớn nhất Việt Nam như: CoopMart, SatraMart, VinMart…Ngoài ra sản phẩm của Công ty cũng đã có mặt tại hơn 130 nhà phân phối, 130.000 điểm bán trên kênh truyền thống, hơn 1.000 siêu thị, cửa hàng tiện lợi và hệ thống gần 50 cửa hàng giới thiệu sản phẩm trên toàn quốc. Bên cạnh thành công vang dội tại thị trường nội địa, sản phẩm của Vissan đã và đang từng bước chinh phục thị trường quốc tế với những bước đi vững chắc: xuất khẩu các sản phẩm chế biến đông lạnh, sản phẩm chế biến truyền thống, sản phẩm chế biến từ thịt… sang thị trường Bắc Mỹ, Úc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Đức, Nga, Lào, Campuchia,….

Bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo nên những thay đổi mạnh mẽ, sâu rộng lên mọi phương diện kinh tế - xã hội, phát triển kênh phân phối trực tuyến đã trở thành xu thế tất yếu trong hoạt động phân phối của mọi doanh nghiệp. Không nằm ngoài xu thế, bằng tinh thần đổi mới sáng tạo không ngừng, tiên phong trong mọi hoạt động, Vissan đã và đang tập trung mở rộng thêm các kênh bán hàng trực tuyến (đặt hàng qua Hotline 19001960, Fanpage; mở gian hàng thực phẩm trên các sàn thương mại điện tử, SHOPEEFOOD, LOSHIP…); qua đó giúp khách hàng yên tâm và thoải mái chọn mua các sản phẩm của Công ty một cách tiện lợi, nhanh chóng. Đặc biệt Vissan cũng đã ra mắt website bán hàng trực tuyến http://vissanmart.com/ để cung cấp những sản phẩm tươi ngon, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đến tận tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng và thuận lợi tối đa. “Thời đại công nghệ số với áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt, chắc chắn Vissan sẽ phải đối mặt với không ít thách thức đòi hỏi sự đầu tư chiều sâu, không ngừng tìm tòi, sáng tạo để cho ra thị trường những sản phẩm chất lượng nhất đáp ứng xu hướng của thị trường và nhu cầu người tiêu dùng. Nhận thức rõ điều này, chúng tôi sẽ tiếp tục lấy lợi ích của người tiêu dùng làm mục tiêu phát triển, không ngừng mở rộng các kênh phân phối bán hàng, triển khai liên kết với các đối tác kinh doanh để tiếp cận rộng rãi đến người tiêu dùng trong nước và các quốc gia khu vực” - Tổng Giám đốc Vissan Nguyễn Ngọc An chia sẻ.

Không ngừng cải tiến, đổi mới để phục vụ người tiêu dùng tốt nhất

Bí quyết thành công, đồng thời cũng là động lực phát triển của Vissan nằm ở chính sứ mệnh cung ứng cho thị trường những sản phẩm thực phẩm an toàn, chất lượng cao và giàu dinh dưỡng; không ngừng cải tiến để có được những sản phẩm tốt nhất, mang đến những trải nghiệm thú vị cùng sự hài lòng cho cộng đồng và toàn xã hội.

Có thể thấy nhịp sống đô thị hối hả, thay cho những bữa ăn truyền thống được nấu nướng, bày biện tỉ mỉ là những bữa ăn công nghiệp với tiêu chí nhanh chóng, tiện lợi nhưng vẫn đảm bảo hàm lượng dinh dưỡng. Trên cơ sở bám sát xu hướng thị trường, Vissan đặt lên vai mình sứ mệnh mới: bảo tồn và phát huy giá trị của bữa ăn gia đình Việt trong đời sống hiện đại. Đây cũng chính là động lực thôi thúc doanh nghiệp thực phẩm hàng đầu này không ngừng xây dựng và hoàn thiện chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn bền vững "Từ trang trại tới bàn ăn"; đẩy mạnh nghiên cứu, sáng tạo và liên tục cho ra thị trường các sản phẩm thực phẩm có hương vị thơm ngon, giàu dinh dưỡng và đa dạng về mẫu mã như: lạp xưởng, chả giò, đồ hộp, thịt kho trứng, thịt heo ướp gia vị, há cảo, hoành thánh....

Thông qua mạng lưới phân phối rộng khắp, người tiêu dùng có thể tìm mua sản phẩm chế biến sẵn của Vissan từ thành thị đến nông thôn với yếu tố về chất lượng, giá cả phải chăng, lại rất tiện lợi trong chế biến; mang đến những bữa ăn nhanh chóng nhưng vẫn thơm ngon và đảm bảo dinh dưỡng, góp phần bình ổn giá cả thị trường thực phẩm cũng như đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho cộng đồng.

Cũng nằm trong mục tiêu chung bình ổn thị thường, Vissan còn gắn kết chặt chẽ với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam như: đẩy mạnh chương trình hàng Việt Nam chất lượng cao về nông thôn, đưa những sản phẩm có mức giá phù hợp đến tay người tiêu dùng. "Giá cả ổn định cũng phần nào minh chứng công tác quản lý, điều hành sản xuất của Vissan rất chặt chẽ từ khâu nguyên, vật liệu đầu vào cho đến sản phẩm đầu ra, từ đó mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm chất lượng, có lợi cho sức khỏe mà giá thành lại rất phù hợp. Đây cũng là cách để thương hiệu Vissan ngày lan tỏa và ghi dấu ấn sâu đậm hơn trong lòng người tiêu dùng" - Tổng Giám đốc Nguyễn Ngọc An nhấn mạnh.

Cũng theo “Thuyền trưởng” Vissan, với tầm nhìn trở thành thương hiệu thực phẩm hàng đầu tại Việt Nam và vươn tầm quốc tế, trong thời gian tới đơn vị sẽ tập trung tái cấu trúc doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh gắn với tăng cường ứng dụng công nghệ số trong hoạt động sản xuất kinh doanh; tạo dựng nền tảng vững chắc đưa Vissan vượt lên trên mọi chông gai, thách thức; bền bỉ vun đắp thương hiệu Việt, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Để làm được điều này, Vissan tập trung hoàn thiện và đưa vào hoạt động cụm công nghiệp chế biến thực phẩm với quy mô lớn tại huyện Bến Lức - tỉnh Long An, góp phần gia tăng năng lực sản xuất, nâng cao hơn nữa chất lượng các dòng sản phẩm cung cấp ra thị trường. Ban lãnh đạo Công ty đặt kỳ vọng đến năm 2023 sẽ hoàn tất di dời máy móc, thiết bị tại Tp.HCM đến nhà máy mới tại Long An và thực hiện các thủ tục kiểm toán, quyết toán dự án.

Nhận thức rõ hệ thống phân phối là yếu tố sống còn, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp trong ngành thực phẩm, Vissan cũng sẽ dành ưu tiên cho phát triển kênh phân phối, tối ưu hoá và đa dạng hoá hệ thống phân phối của Công ty. Đồng thời đầu tư nguồn lực xây dựng vùng chăn nuôi gia súc chất lượng cao, truy xuất được nguồn gốc; tăng cường kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm cho toàn bộ sản phẩm; xây dựng và hoàn thiện chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn bền vững "từ trang trại tới bàn ăn"… Tất cả những nỗ lực này của Vissan đều nhằm hướng đến thực hiện tốt hơn nữa sứ mệnh "cung cấp những sản phẩm an toàn, chất lượng với giá trị dinh dưỡng cao và tiện lợi, mang đến cuộc sống tốt đẹp hơn và phong phú hơn cho cộng đồng"

- 1 -CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU1.1- ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1.1- Lý do hình thành dự án Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, thu nhập của người dân ngày càng cao, đời sống vật chất ngày càng được cải thiện, nhu cầu thực phẩm không chỉ để no mà còn phải ngon, đủ dinh dưỡng, hợp vệ sinh, đồng thời thực phẩm chế biến sẵn cũng phải đáp ứng sự tiện lợi cho người tiêu dùng, phù hợp với lối sống công nghiệp là điều chắc chắn phải tiến tới. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng ngày càng phát triển mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thực phẩm chế biến có chất lượng ngày càng cao. Sự ra đời và phát triển liên tục của các công ty, xí nghiệp chế biến thực phẩm như Vissan, Cầu Tre, Hạ Long, Hiến Thành, Tuyền Ký, Thủy Đặc Sản, Agrex Sài Gòn, Super Chef, Le Gourmet … đã minh chứng điều đó.Qua khảo sát thò trường thực phẩm ở một số nước Châu Á như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, công ty Vissan nhận thấy một sản phẩm mang tên “giả cua” (imitation crab stick) được sản xuất từ nguyên liệu Surimi (cá xay nhuyễn, tách xương, da, tách các thành phần chất béo), sản phẩm này được tiêu thụ rất lớn trên thò trường các nước trên. Đặc biệt là người Thái Lan và Trung Quốc có cách ăn uống và khẩu vò giống người Việt Nam. Do đó, công ty Vissan - 2 -nhận đònh đây là mặt hàng có thể phát triển mạnh trong nước, nếu thành công trong đầu tư, sản phẩm này sẽ củng cố thêm cho công ty một thế đứng dẫn đầu trong ngành chế biến thực phẩm (Trước đây công ty cũng đã thành công với sản phẩm xúc xích tiệt trùng và hiện nay công ty đang dẫn đầu thò trường về sản phẩm này), tạo lợi thế cạnh tranh mới và không ngừng tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Đó là ý tưởng ban đầu của việc hình thành dự án xây dựng một phân xưởng sản xuất loại sản phẩm “giả cua” tại Việt nam.Sản phẩm “giả cua” là một loại thực phẩm chế biến sẵn có dinh dưỡng cao, hàm lượng đạm (protein) cao, cholesteron thấp, rất tốt cho người có nguy cơ về bệnh tim mạch, tránh tình trạng béo phì. Do đó khuynh hướng tiêu dùng của người dân có thể chuyển sang sử dụng loại thực phẩm tốt cho sức khoẻ và đủ dinh dưỡng, đặc biệt là người cao tuổi. Như vậy, dự án đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm “giả cua” của công ty Vissan phù hợp với chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của công ty như sau:Phù hợp với đònh hướng phát triển của ngành chế biến thực phẩm.Đa dạng hoá sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh.Sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có của công ty.Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.Với những lý do nêu trên, dự án đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm giả cua với công nghệ hiện đại trên đòa bàn thành phố Hồ chí Minh là cần thiết.- 3 -1.1.2- Mục tiêu dự án Mục tiêu chính của dự án là xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm “giả cua”. Ngoài ra dự án còn khảo sát thêm nhận thức của người tiêu dùng về khuynh hướng chuyển đổi thực phẩm chế biến từ thòt sang thực phẩm chế biến từ cá - là loại thực phẩm dinh dưỡng và tốt cho sức khoẻ con người-.1.1.3- Lý do hình thành đề tài Dự án xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm giả cua là dự án thực tế của công ty Vissan. Nhằm đảm bảo việc đầu tư của công ty vào dự án thu được hiệu quả, cần thiết phải tiến hành phân tích tính khả thi của dự án. Hơn nữa, nội dung của dự án có những vấn đề mới cần nghiên cứu như: nhu cầu thò trường, giá cả sản phẩm, khả năng chấp nhận sản phẩm mới của người tiêu dùng. Do đó dự án này được đề nghò để làm đề tài tốt nghiệp.1.2- MỤC TIÊU ĐỀ TÀIMục tiêu của đề tài là:Khảo sát mối quan tâm của người tiêu dùng đối với loại sản phẩm tránh nguy cơ về bệnh béo phì và tim mạch cho con người, từ đó xác đònh chiến lược trong việc phát triển sản phẩm mới của công ty Vissan.Phân tích tính khả thi của dự án đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm giả cua nhằm trả lời các vấn đề cụ thể sau:- 4 --Nhu cầu tiềm năng của thò trường, giá bán sản phẩm, chất lượng yêu cầu của sản phẩm, qui mô sản xuất của dự án.-Dự án có đáng giá về mặt tài chính và kinh tế không.-Các nguồn rủi ro của dự án và ảnh hưởng của nó đến kết quả.-Tác động của lạm phát đến kết quả của dự án.1.3- PHẠM VI ĐỀ TÀI Đề tài nghiên cứu được giới hạn ở phạm vi như sau:Khảo sát nhận thức và đánh giá chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng thông qua việc phỏng vấn người dân từ độ tuổi 15 đến 60 sau khi ăn thử sản phẩm giả cua. Phân tích nhu cầu tiềm năng theo thời gian của thò trường Việt Nam đối với sản phẩm giả cua thông qua nhu cầu tiêu thụ của thò trường tương đương là Thái Lan. Phân tích dự án ở mức độ tiền khả thi.Phân tích tài chính và kinh tế bằng việc xác đònh NPV và IRR của dòng ngân lưu tài chánh và kinh tế của dự án.Xem xét ảnh hưởng của lạm phát và phân tích rủi ro theo một số biến nhạy cảm lên NPV và IRR.Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho việc ra quyết đònh nghiên cứu khả thi của công ty Vissan và đònh hướng về sản phẩm mới trong tương lai.- 5 -1.4- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUPhương pháp nghiên cứu bao gồm các phần:Nghiên cứu chất lượng sản phẩm về mặt cảm quan (màu sắc, mùi vò, cầu trúc sản phẩm…), giá bán sản phẩm thông qua việc thu thập thông tin sơ cấp từ thò trường thực nghiệm (cho người tiêu dùng ăn thử sản phẩm giả cua)Dự báo nhu cầu sản phẩm giả cua tại Việt Nam theo nhu cầu thực tế tại thò trường Thái Lan trong quá khứ, trong đó có xem xét sự chênh lệch dân số giữa hai quốc gia.Dự báo giá các yếu tố đầu vào theo mô hình hồi qui tuyến tính theo thời gian, đồng thời dựa vào số liệu dự báo có sẵn của các ban ngành chức năng. Phân tích tài chánh theo chỉ tiêu NPV và IRR trên quan điểm tổng đầu tư và chủ đầu tư có xét ảnh hưởng của lạm phát lên dòng ngân lưu của dự án.Phân tích rủi ro được thực hiện qua phân tích độ nhạy, phân tích tình huống và phân tích rủi ro bằng mô phỏng.Phân tích kinh tế được thực hiện qua tính toán các hệ số chuyển đổi giá cho các nhập lượng và xuất lượng của dự án để tính chi phí và lợi ích kinh tế nhằm xác đònh giá trò kinh tế của dự án.1.5- THU THẬP DỮ LIỆUDữ liệu sơ cấp được thu thập từ người tiêu dùng thành phố Hồ Chí Minh có độ tuổi từ 15 đến 60 tuổi với cỡ mẫu là 500 phần tử.- 6 -Dữ liệu thứ cấp về sản lượng tiêu thụ sản phẩm giả cua tại Thái Lan từ công ty Thai Luxury Foods.Dữ liệu thứ cấp về giá nguyên liệu được thu thập từ công ty Vissan, PEJA Việt Nam, công ty Prima Sea - Hàn Quốc, công ty Young Nam - Hàn QuốcDữ liệu thứ cấp về dân số từ Niên Giám Thống Kê 2002, Kết quả dự báo dân số Việt Nam năm 1999 đến 2024, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam.Số liệu có liên quan đến việc đònh giá thiết bò, xác đònh công suất thiết bò, đònh suất tiêu thụ năng lượng được thu thập từ công ty BEHN MEYER - Việt Nam, công ty YANAGIYA - Nhật Bản.- 7 -CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬNPhần đầu của chương này trình bày các phương pháp tạo sản phẩm mới thường áp dụng tại công ty Vissan. Phần hai là cơ sở lý thuyết gồm các nội dung: giới thiệu phương pháp dự báo, các phương pháp phân tích tài chính dự án, các phương pháp phân tích rủi ro và phương pháp phân tích kinh tế.2.1- CÁC PHƯƠNG PHÁP TẠO SẢN PHẨM MỚI ĐƯC ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY VISSAN- 8 -Vissan là một công ty chuyên sản xuất và kinh doanh thực phẩm chế biến, do đó công tác phát triển sản phẩm mới luôn luôn là một yêu cầu bức thiết để tạo năng lực chủ đạo và vò thế cạnh tranh tốt trên thò trường. Thật vậy, khuynh hướng thay đổi cách ăn uống cũng như việc đòi hỏi luôn có sản phẩm mới trong ngành thực phẩm của người tiêu dùng diễn ra tương đối nhanh, ngành chế biến thực phẩm cần đáp ứng được các yêu cầu thiết thực này, đó chính là yếu tố để tồn tại và phát triển của một công ty chế biến thực phẩm, Vissan cũng vậy.Sản phẩm mới có thể là một sản phẩm hoàn toàn mới, sản phẩm cải tiến, sản phẩm sửa đổi cho thích hợp hơn và sản phẩm có nhãn hàng mới. Trong quá trình phát triển, công ty Vissan cũng đã trải qua con đường tạo sản phẩm mới như vậy. Tuy nhiên, không phải lúc nào sản phẩm mới cũng thành công, các nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại như sau:Các tổ chức có thẩm quyền cấp cao có thể loại bỏ những ý tưởng tốt thay vì các ý tưởng xấu.Ý tưởng tốt nhưng qui mô thò trường nhỏ, nằm ngoài dự báo ban đầu.Sản phẩm thực không được thiết kế cẩn thận.Đònh vò trí sản phẩm không đúng, quảng cáo không hiệu quả hoặc giá bán quá cao.Chi phí để phát triển sản phẩm cao hơn nhiều so với dự đònh.Do đó, việc phát triển sản phẩm mới phải được cân nhắc cẩn trọng, phải phù hợp với chiến lược phát triển của công ty, xem xét đến vòng đời sản phẩm hiện có - 9 -để xác đònh thời điểm thích hợp cho việc phát triển sản phẩm mới, phải xác đònh mối quan hệ giữa sản phảm mới và sản phẩm hiện có nhằm tránh trường hợp các sản phẩm có tính thay thế lẫn nhau.Qui trình tạo sản phẩm mới tại công ty Vissan có thể tóm lược theo các bước như sau:Phát triển ý tưởngChọn lọc ý tưởngXây dựng và thử nghiệmPhát triển chiến lược tiếp thòPhân tích kinh doanhPhân tích đầu tưPhát triển sản phẩmTiếp thò thử nghiệmThương mại hoá- 10 -Hình 2.1: Qui trình tạo sản phẩm mới tại công ty VissanCác bước thực hiện cụ thể trong qui trình được trình bày trang sau:a- Phát triển ý tưởngĐây là bước đầu tiên trong quá trình phát triển sản phẩm mới, ý tưởng có thể xuất phát từ khách hàng, các nhà khoa học, từ sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, lực lượng bán hàng của công ty, từ phòng thí nghiệm, từ nhà cung ứng hoặc từ thò trường ở các nước khác trên thế giới…Lãnh đạo công ty xác đònh cẩn thận mục tiêu và chiến lược kinh doanh cho việc phát triển sản phẩm mới trong mỗi thời đoạn là một năm. Đồng thời huấn luyện cho các nhà điều hành những kỹ thuật để tìm ra những ý tưởng mới như:Phân tích các vấn đề của khách hàng, phỏng vấn khách hàng và yêu cầu họ nêu ra những vấn đề gặp phải khi sử dụng sản phẩm.Phân tích sự thay đổi sản phẩm cho phù hợp hơn, xem xét các đặc tính của sản phẩm và suy nghó xem có thể thay đổi, thay thế, sắp xếp lại hoặc kết nối một hai hay nhiều đặc tính với nhau.Xem xét ý kiến của khách hàng thông qua các chương trình đại hội khách hàng.Khảo sát sự vận hành của thò trường tương tự (khu vực Châu Á) để tìm sản phẩm mới phù hợp thò trường trong nước. - 11 -Động não: 5 đến 10 người có kinh nghiệm làm việc và quản lý trong lónh vực sản xuất - kinh doanh được giao cho một vấn đề cần giải quyết.b- Chọn lọc các ý tưởngMục đích của bước chọn lọc ý tưởng là xem xét để xếp hạng ưu tiên các ý tưởng, đồng thời công việc chọn lọc này phải chỉ ra và loại bỏ các ý tưởng xấu càng sớm càng tốt. Trong giai đoạn chọn lọc, công ty luôn quan tâm đến các câu hỏi như:Có bỏ qua một ý tưởng tốt vì không nhìn thấy tiềm năng của nó hay không.Có chọn một ý tưởng tồi để phát triển và thương mại hoá không.Yếu tố nào dùng để xếp loại các ý tưởng.Từng ý tưởng cho ra các loại sản phẩm nào phù hợp.c- Xây dựng và thử nghiệmMục đích của việc xây dựng và thử nghiệm là tạo sản phẩm mẫu gần nhất với các yêu cầu thò trường đòi hỏi nhằm giảm thiểu chi phí điều chỉnh sản phẩm khi đưa ra thò trường thương mại.Quá trình xây dựng và thử nghiệm bao gồm mô tả các chức năng, đặc tính của sản phẩm, đối tượng sử dụng sản phẩm là ai, khi nào sử dụng sản phẩm này, sử dụng cho mục đích gì, các thành phần nguyên liệu cấu thành nên sản phẩm, quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm.- 12 -Tiến hành tạo sản phẩm mẫu, sau đó lấy ý kiến chuyên gia nội bộ thông qua việc dùng thử sản phẩm mẫu. Bước tiếp theo là sửa đổi sản phẩm, lấy ý kiến tập thể nhân viên của công ty, ý kiến chuyên gia lần hai và sửa đổi cuối cùng.d- Phát triển chiến lược tiếp thòCông ty tiến hành mô tả qui mô, cấu trúc và hành vi của thò trường trọng tâm, vò trí dự đònh trên thò trường của sản phẩm mới. Dự đoán doanh thu, thò phần và mục tiêu lợi nhuận mong muốn trong vài năm đầu.Dự đònh giá của sản phẩm theo nguyên tắc hớt váng (giá cao ngay từ ban đầu) hoặc giá thâm nhập (giá thấp) tùy vào tính chất và đặc điểm sản phẩm. Chiến lược về phân phối và ngân sách tiếp thò cho năm đầu tiên.Ước tính doanh thu, lợi nhuận, chiến lược tổ hợp tiếp thò 4 P (Product, Price, Place, Promotion) trong dài hạn.e- Phân tích kinh doanh, phân tích đầu tư và phát triển sản phẩmĐối với một sản phẩm là thực phẩm, công việc thiết kế, thay đổi hoặc điều chỉnh các đặc tính của nó được thực hiện tương đối nhanh chóng và chi phí không cao. Do đó, việc phân tích kinh doanh, phân tích đầu tư và phát triển sản phẩm chủ yếu tuỳ thuộc vào vốn đầu tư để tạo sản phẩm mới. Việc phát triển sản phẩm có thể chia thành hai loại như sau:Đối với sản phẩm mới có thể được sản xuất từ dây chuyền thiết bò sẵn có:- 13 -Công ty chỉ thực hiện phân tích kinh doanh: ước lượng doanh số bán để xác đònh doanh thu của sản phẩm mới có đủ cao để đáp ứng suất thu lợi kỳ vọng của công ty, kế đến tính chi phí và lợi nhuận. Sản phẩm mới sau khi hoàn chỉnh mẫu có thể đưa ngay ra thò trường thử nghiệm.Đối với sản phẩm mới phải đầu tư lớn cho thiết bò sản xuất:Công ty phải tiến hành khảo sát thò trường, xác đònh nhu cầu tiêu dùng. Xác đònh qui mô sản xuất và lập dự án phân tích khả thi cho công việc đầu tư vào sản phẩm mới. f- Tiếp thò thử nghiệmTrong giai đoạn này, sản phẩm và các chương trình tiếp thò được giới thiệu với nhiều khách hàng để xem xét phản ứng của họ trong việc mua bán và sử dụng sản phẩm, và cũng để đánh giá qui mô của thò trường chính xác hơn.g- Thương mại hoáCông ty xác đònh thời điểm tung sản phẩm mới ra thò trường, chọn đối tượng khách hàng để xác đònh sản phẩm được giới thiệu như thế nào và bày bán ở đâu, phương pháp phân phối và chiến lược tiếp thò tiếp theo.Hiện tại, hệ thống phân phối của công ty tạo thành mạng lưới phủ khắp nước, phân phối đến các đại lý chính thức của công ty cũng như phục vụ sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Đồng thời quảng bá thương hiệu Vissan đến từng người - 14 -dân. Với một chi nhánh Hà Nội phụ trách thò trường miền Bắc, một chi nhánh Đà Nẵng phụ trách thò trường miền Trung, 12 cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh cùng hàng trăm đại lý trên toàn quốc, công ty Vissan có lợi thế rất lớn trong việc giới thiệu sản phẩm mới trong giai đoạn bắt đầu thương mại hoá thông qua hệ thống phân phối của mình.2.2- CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁOPhương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích dự báo là mô hình nhân quả và mô hình chuỗi thời gian. Mô hình nhân quả cho biết kết quả dự báo của một biến phụ thuộc vào sự thay đổi của một hay nhiều biến độc lập, mô hình này thường dùng để xác đònh mối quan hệ giữa các biến độc lập và phụ thuộc nhằm hoạch đònh chính sách. Mô hình chuỗi thời gian thường được dùng để dự báo ngắn hạn về giá hoặc nhu cầu của một biến theo thời gian. Ngoài ra còn có thể sử dụng các phương pháp dự báo khác như dự báo theo tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế vó mô, các phương pháp dự báo dựa vào sự so sánh giữa thò trường cần nghiên cứu và các thò trường khác có những yếu tố tương đồng nhau. Các phương pháp cụ thể như sau:2.2.1- Phương pháp hồi qui đa biếnPhương pháp hồi qui đa biến được sử dụng phổ biến trong kinh tế lượng nhằm xây dựng mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế. Phương pháp này xác đònh giá trò của biến cần nghiên cứu (biến phụ thuộc) dựa vào một hay nhiều biến nguyên nhân (biến độc lập).- 15 -Mô hình toán :Y = A0 + ΣAiXi + εTrong đó Y : biến phụ thuộcX : biến độc lậpA0 : tung độ gốcAi : hệ số độ dốcεt : sai số ngẫu nhiênTrong phương pháp hồi qui đa biến, nếu biết được giá trò của các biến độc lập trong tương lai thì có thể dự báo được giá trò của biến phụ thuộc. Tuy nhiên trong luận văn này, do giới hạn qui mô đề tài, phương pháp này không được dùng để dự báo giá của các yếu tố đầu vào.2.2.2- Phương pháp chuỗi thời gianPhương pháp dự báo dựa vào dữ liệu theo chuỗi thời gian trong quá khứ, dùng để biểu thò những thay đổi của một đại lượng nghiên cứu theo thời gian qua việc phân tích và dự đoán xu thế của biến trong tương lai dựa trên những dữ liệu theo thời gian trong quá khứ. Phương pháp này thường dùng để dự báo ngắn hạn.2.2.3- Phương pháp dự báo theo tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế vó môDự báo này căn cứ vào dữ liệu của năm gốc thường chọn là năm hiện tại và tỷ lệ tăng trưởng dự báo. Để dự báo tỷ lệ tăng trưởng người ta dựa vào kết quả - 16 -thống kê trong quá khứ, xu hướng phát triển và ý kiến của các chuyên gia trong ngành về lónh vực cần dự báo. Kết quả dự báo là số liệu của năm gốc cộng với mức tăng trưởng đến năm cần dự báo.Tóm lại trong luận văn này, phương pháp dự báo theo theo tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế vó mô được chọn để dự báo giá của các yếu tố đầu vào trong suốt thời kỳ phân tích của dự án.2.2.4- Phương pháp dự báo dựa vào so sánh Trong thực tế kinh doanh đôi khi không thể thu thập được dữ liệu quá khứ, chẳng hạn với một sản phẩm hoàn toàn mới, không thể có dữ liệu quá khứ để dự báo cho tương lai. Tuy nhiên, dự án vẫn phải tiến hành dự báo để đi đến quyết đònh trong đầu tư, cho nên người ta thường dùng phương pháp dự báo dựa vào so sánh. Có hai phương pháp dự báo so sánh: phương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đương và phương pháp dự báo dựa vào thò trường tương đương được trình bày sau đây:a- Phương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đươngPhương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đương sử dụng các dữ liệu về doanh thu của các sản phẩm tương đương với sản phẩm mới. Phương pháp này được thực hiện theo các bước sau đây: Liệt kê những sản phẩm tương tự với sản phẩm mới, cùng doanh số bán hằng năm của những sản phẩm đó. Các năm trong đời sống của sản phẩm được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn triển khai sản phẩm và giai đoạn hậu triển khai.- 17 -Tính toán tỷ lệ tăng doanh số hàng năm của mỗi sản phẩm. Tỷ lệ này chỉ được sử dụng sau khi kết thúc giai đoạn triển khai sản phẩm, bởi trong giai đoạn này tỷ lệ tăng doanh số khá cao.Tính tỷ lệ tăng trung bình hàng năm của tất cả các sản phẩm tương đương và tỷ lệ này được áp dụng để dự báo nhu cầu của sản phẩm mới.Mặc dù phương pháp này được áp dụng để dự báo rất phổ biến cho sản phẩm mới, nhưng đối với sản phẩm giả cua, không thấy có các loại sản phẩm tương đương trên thò trường Việt Nam để có thể dự báo nhu cầu cho sản phẩm giả cua. Hơn nữa, phương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đương chỉ áp dụng dự báo ngắn hạn. Do đó trong luận văn này không sử dụng phương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đương. b- Phương pháp dự báo dựa vào thò trường tương đương.Phương pháp dự báo dựa vào thò trường tương đương dùng để dự báo nhu cầu, giá cả của một loại sản phẩm mới đối với thò trường này nhưng nó lại là sản phẩm hiện hữu đối với thò trường khác có những điểm tương đồng. Dữ liệu về nhu cầu thò trường theo thứ tự năm, bắt đầu từ năm thứ nhất đến năm thứ n trong quá khứ sẽ được dự báo cho nhu cầu của thò trường mới, trong đó có xem xét sự chênh lệch giữa hai thò trường như dân số, thu nhập…Do tính đơn giản nhưng đáng tin cậy của phương pháp thò trường tương đương, luận văn sẽ áp dụng phương pháp nêu trên để dự báo nhu cầu thò trường của sản phẩm giả cua thông qua thò trường tương đương là Thái Lan. - 18 -2.2.5- Phương pháp gia tăng luỹ tiếnMô hình này thể hiện sự gia tăng doanh số của sản phẩm mới tỷ lệ thuận với mức độ lan truyền thông tin về sản phẩm trong khách hàng tiềm năng.Mô hình mô tả đường cong chu kỳ doanh số mua lần đầu của sản phẩm mới dựa trên một số rất ít thông số. Những dữ liệu này được ước tính lần đầu dựa vào những dữ liệu quá khứ của các sản phẩm tương tự.Tóm lại, với những hạn chế của mô hình gia tăng tích luỹ (phải có dữ liệu doanh số lần đầu của sản phẩm tương tự và dữ liệu về mức độ lan truyền thông tin về sản phẩm), cho nên trong luận văn này phương pháp gia tăng tích luỹ sẽ không được áp dụng.2.3- CÁC QUAN ĐIỂM PHÂN TÍCH DỰ ÁNPhân tích dự án được xây dựng theo những quan điểm khác nhau của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến các dự án nhằm đánh giá dự án có hấp dẫn nhà đầu tư và những người tham gia thực hiện dự án hay không. Do đó luận văn sẽ tập trung phân tích tài chính theo quan điểm tổng đầu tư (quan điểm ngân hàng) và quan điểm chủ đầu tư (quan điểm cổ đông).2.3.1- Phân tích theo quan điểm tổng đầu tưQuan điểm tổng đầu tư còn được gọi là quan điểm ngân hàng. Theo quan điểm này, dự án được xem như một hoạt động có khả năng tạo ra lợi ích tài chính và thu hút những nguồn tài chính rõ ràng. Các nhà phân tích xem xét toàn bộ dòng - 19 -chi phí, lợi ích thu được trong đó có tính đến chi phí cơ hội của những thành phần tài chính đóng góp vào dự án. Quan điểm tổng đầu tư dùng xem xét nhu cầu vay, khả năng trả, bỏ vốn đầu tư.Phân tích theo quan điểm tổng đầu tư được trình bày như sau:[A] = Lợi ích tài chính trực tiếp – Chi phí tài chính trực tiếp – Chi phí cơ hội của tài sản đã có.Suất chiết khấu được sử dụng trong phân tích dự án theo quan điểm tổng đầu tư là giá sử dụng vốn trung bình WACC của dự án. Trong đó WACC là trung bình trọng số của giá sử dụng vốn của chủ đầu tư và lãi vay.2.3.2- Phân tích theo quan điểm chủ đầu tư Theo quan điểm chủ đầu tư hay quan điểm cổ đông trong phân tích dự án, các nhà phân tích xem xét dòng tài chính chi cho dự án và các lợi ích thu được, đi kèm với chi phí cơ hội của vốn cổ đông góp vào dự án, coi vốn vay là khoản thu, trả vốn vay và lãi là khoản chi. [B] = [A] + Vốn vay – Trả lãi và nợ vaySuất chiết khấu đươc sử dụng theo quan điểm này là giá sử dụng vốn của chủ đầu tư.2.4- CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNHPhân tích tài chính là đánh giá triển vọng tài chính, khả năng thành công và hiệu quả của dự án dưới góc độ của các tổ chức, cá nhân tham gia vào dự án. Trong phân tích tính khả thi của dự án người ta thường sử dụng ba nhóm phương pháp - 20 -phân tích là: giá trò tương đương, suất thu lợi và tỷ số lợi ích/chi phí. Trong luận văn này chỉ sử dụng hai nhóm phương pháp phổ biến là giá trò tương đương và suất thu lợi.2.4.1- Nhóm phương pháp giá trò tương đương .Nhóm phương pháp giá trò tương đương gồm ba phương pháp là:Giá trò hiện tại ròng NPV (Net Present Value)Chuỗi giá trò đều hằng năm AW (Annual Worth)Giá trò tương lai FW (Future Worth)Nội dung của nhóm phương pháp này là quy đổi toàn bộ dòng tiền tệ thu nhập và dòng tiền tệ chi phí của dự án về một giá trò hiện tại, hoặc thành một chuỗi giá trò đều hằng năm, hoặc một giá trò tương lai với mức chiết khấu được chọn. Suất chiết khấu được chọn thường là suất thu lợi tối thiểu chấp nhận được MARR (Minimum Attrative Rate of Return). Dự án được xem là đáng giá khi NPV, AW, FW ≥ 0Trong luận văn này, phương pháp giá trò hiện tại ròng được sử dụng để phân tích hiệu quả tài chính của dự án, phương pháp này được giới thiệu sau đây:Giá trò hiện tại ròng là hiệu số giữa giá trò hiện tại của dòng thu nhập và giá trò hiện tại của dòng chi phí đã được chiết khấu với một lãi suất yêu cầu.NPV được tính theo công thức sau:- 21 -∑=+−=NtiCtBtNPVt0)1(Trong đó:Bt : thu nhập ở năm thứ tCt : chi phí ở năm thứ t i : suất chiết khấu yêu cầut : thứ tự năm hoạt động của dự ánN : số năm hoạt động của dự ánĐánh giá dự án theo NPV: dự án đáng giá khi NPV ≥ 0So sánh nhiều dự án theo NPV: nếu có nhiều dự án loại trừ nhau thì dự án có NPV dương và lớn nhất sẽ được chọn.2.4.2- Nhóm phương pháp suất thu lợiTrong nhóm phương pháp suất thu lợi có hai phương pháp thường được sử dụng là suất thu lợi nội tại IRR (Internal Rate of Return) và suất thu lợi ngoại lai ERR (External Rate of Return). Trong luận văn này, phương pháp suất thu lợi nội tại được sử dụng để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.- 22 -Phương pháp suất thu lợi nội tại: Suất thu lợi nội tại là mức chiết khấu mà nếu được sử dụng làm hệ số chiết khấu để quy đổi dòng tiền tệ của dự án thì giá trò hiện tại của dòng thu nhập sẽ cân bằng với giá trò hiện tại của dòng chi phí. Công thức tính IRR: ( )∑∑==+=+NttNttiCtiBt001)1(Trong đó:Bt : thu nhập ở năm thứ tCt : chi phí ở năm thứ t t : thứ tự năm hoạt động của dự ánN : số năm hoạt động của dự án i : suất chiết khấu IRRĐánh giá dự án theo IRR: khi dự án có IRR ≥ MARR thì được coi là đáng giá. MARR là suất thu lợi tối thiểu chấp nhận được của dự án.So sánh các dự án theo IRR: dựa trên nguyên tắc so sánh gia số vốn đầu tư . Giả sử chúng ta có hai dự án là A và B, trong đó B có vốn đầu tư lớn hơn A, dự án A được xem là đáng giá, gia số vốn đầu tư ∆ từ dự án A lên dự án B bằng CF(B) trừ CF(A). Dự án B được coi là đáng giá khi IRR(∆) ≥ MARR, nếu như IRR(∆)≤ MARR thì việc đầu tư vào dự án B không đáng giá. Do đó trong trường hợp có nhiều dự án cần thẩm đònh, dự án có vốn đầu tư lớn hơn sẽ được coi là đáng giá hơn nếu như suất thu lợi của gia số đầu tư là IRR (∆) ≥ MARR.- 23 -2.5- PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁTLạm phát được đo bằng tỷ lệ thay đổi giữa mặt bằng giá hiện tại và mặt bằng giá năm gốc. Lạm phát tác động trực tiếp lên các hạng mục của dòng tiền và tác động gián tiếp thông qua thuế làm thay đổi kết quả dòng tiền của dự án. Theo lý thuyết, lạm phát làm tăng NPV của dòng tiền thông qua các khoản phải trả, khấu trừ lãi vay và làm giảm NPV của dòng tiền thông qua các khoản phải thu, khấu hao, số dư tiền mặt, tồn kho. Giá trò năm gốc của dòng tiền không chòu tác động của lạm phát.Như vậy, trong luận văn có xem xét tác động của lạm phát đến kết quả phân tích tài chính và nó cho thấy mức độ rủi ro khi ra quyết đònh trên cơ sở thay đổi lạm phát trong tương lai. 2.6- PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH RỦI RO Rủi ro là sự khác biệt giữa giá trò kỳ vọng hay kế hoạch so với giá trò thực tế. Trong thực tiễn khả năng xuất hiện sự bất ổn có thể xảy ra hoặc không xảy ra, dù cho doanh nghiệp có xây dựng kế hoạch và đánh giá sự phát triển trong tương lai hay không. Việc phân tích rủi ro nhằm cung cấp thông tin về các khả năng có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến hiệu quả dự án. Nguồn gốc của rủi ro là do sai số dự báo giá, lượng của các yếu tố đầu vào, cũng như yếu tố đầu ra. Sự bất đònh này liên quan - 24 -đến nhiều yếu tố như tình hình kinh tế chính trò xã hội, sự thay đổi công nghệ, thiết bò, loại hình đầu tư…Nói chung, tất cả các dự án đều có rủi ro nhất đònh. Các công cụ thường được dùng để phân tích rủi ro là phân tích độ nhạy, phân tích tình huống và phân tích rủi ro bằng mô phỏng.2.6.1- Phân tích độ nhạyPhân tích độ nhạy là phân tích ảnh hưởng của sự thay đổi lần lượt của các yếu tố đầu vào lên kết quả của yếu tố đầu ra, phân tích này cho biết một lượng thay đổi đầu vào sẽ thay đổi một lượng đầu ra như thế nào. Cụ thể trong luận văn này, yếu tố đầu vào là giá các nhập lượng, nhu cầu, yếu tố đầu ra chính là NPV và IRR của dự án. Trước hết chọn các yếu tố đầu vào có khả năng ảnh hưởng đến kết quả dự án, sau đó tiến hành phân tích các yếu tố nào nhạy cảm, nghóa là một lượng thay đổi nhỏ cũng dẫn đến một lượng thay đổi lớn lên NPV và IRR. Khi khảo sát sự thay đổi của một yếu tố đầu vào thì giả đònh rằng các yếu tố đầu vào còn lại sẽ không thay đổi. 2.6.2- Phân tích tình huốngTrên cơ sở phân tích độ nhạy, các yếu tố quan trọng ảnh hưởng nhiều đến kết quả dự án sẽ được xác đònh. Sau đó chọn ra các tình huống tốt nhất, trung bình, xấu nhất của các yếu tố đó để xem xét sự tác động của nó lên hiệu quả của dự án. Phân tích tình huống nhằm giúp cho việc đánh giá tác động đồng thời của nhiều yếu tố và sự tương tác của chúng lên kết quả cần nghiên cứu.- 25 -2.6.3 Phân tích rủi ro bằng mô phỏngCông cụ mô phỏng Monte Carlo được chọn để phân tích rủi ro của dự án trong luận văn này. Việc phân tích bằng mô phỏng cho phép nghiên cứu đồng thời ảnh hưởng của các tham số liên quan đến kết quả dự án trên cơ sở phân phối xác suất. Đầu tiên xây dựng mô hình dự án, sau đó xác đònh phân phối xác suất cho các tham số bất đònh trong mô hình dựa trên các dữ liệu thu thập được trong quá khứ và cuối cùng là chọn số lần chạy mô phỏng đủ lớn để kết quả đạt được có độ tin cậy tốt.Kết quả mô phỏng cho phép xác đònh giá trò kỳ vọng và xác suất thành công của dự án, nghóa là xác suất để NPV ≥ 0 và IRR ≥ MARR. Phần mềm @Risk được sử dụng để phân tích rủi ro trong luận văn này.2.7- PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KINH TẾ Việc phân tích kinh tế xác đònh dự án có lợi cho quốc gia hay không dựa trên quan điểm gộp chung lợi ích và chi phí của tất cả các thành phần của quốc gia như một tổng thể. Phân tích kinh tế dựa trên giá trò kinh tế, phân tích tài chính dựa trên giá trò tài chính, tuy nhiên giá trò kinh tế thường không nhận thấy, nên nó được xác đònh dựa trên giá trò tài chính. Giá trò kinh tế và tài chính khác nhau là do thuế, trợ cấp, và các yếu tố ngoại lai gọi chung là yếu tố biến dạng của thò trường. Khi thò trường có những biến dạng do các yếu tố ngoại lai như: các loại thuế, trợ giá, giá trần, mức lương tối thiểu…thì giá của hàng hoá, giá ngoại tệ, tiền lương, giá sử dụng vốn có thể bò bóp méo.