Nguồn thu của ngân hàng thương mại

Cạn room tín dụng, ngân hàng đẩy mạnh thu ngoài lãi

VTV.vn - Nhiều ngân hàng có nguồn thu ngoài lãi tăng mạnh gấp 2 so với cùng kỳ năm 2021.

Nguồn thu của một ngân hàng đến từ 2 nguồn. Trung bình, 75% đến từ hoạt động chính là cho vay [tín dụng], 25% còn lại là phi tín dụng [nguồn thu ngoài lãi]. Đó có thể là thu từ dịch vụ bảo hiểm, từ phí thẻ tín dụng, từ chuyển tiền, thanh toán quốc tế hay từ sự chuyển đổi số của các ngân hàng.

Đáng chú ý, có những ngân hàng tỷ lệ này đã tăng lên 35%, thậm chí hơn 50%. Nguồn thu hàng chục tỷ đồng của ngân hàng đôi khi đến từ việc các gia đình cho con em đi du học.

Sau kỳ thi tốt nghiệp cấp 2, cấp 3, nhiều học sinh đang được gia đình định hướng du học tại nước ngoài như Nhật Bản, châu Âu hay Mỹ. Với chi phí một năm học tại Mỹ từ 50.000 - 80.000 USD/năm, tương đương khoảng từ 1,1 - 1,8 tỷ đồng/năm, mỗi lần thanh toán, ngân hàng có thêm một khoản thu.

Trong bối cảnh room tín dụng 5 tháng cuối năm sắp cạn, thu nhập ngoài lãi sẽ có triển vọng tăng trưởng tốt, trở thành động lực thúc đẩy lợi nhuận. [Ảnh minh họa - Ảnh: Báo Đầu tư]

"Học sinh sẽ phải chịu một mức phí cho mỗi lần chuyển tiền tại ngân hàng, đó là 22 USD cộng 0,2% số tiền thực tế mà học sinh muốn nộp", chị Nguyễn Thị Ngọc Viên, Quản lý tư vấn du học, Công ty TNHH Fourdozen, Inc, cho biết.

Ngoài chuyển tiền để thanh toán du học, các cá nhân còn chuyển tiền để du lịch, chữa bệnh. Còn với các doanh nghiệp là thư tín dụng, hay là thanh toán xuất nhập khẩu khi 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt hơn 371 tỷ USD.

"Hiện doanh số mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế của ngân hàng đã lên đến 6 - 7 tỷ USD. Đó là con số lớn so với quy mô của ngân hàng", ông Nguyễn Hưng, Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong [TPBank], cho hay.

Giá trị thanh toán qua thẻ tín dụng tại Việt Nam trong nửa đầu năm cũng tăng mạnh trên 70%, nhất là ở các lĩnh vực du lịch, nghỉ dưỡng, nhà hàng, ăn uống.

"Khi áp dụng số hóa, việc phê duyệt thẻ tín dụng chỉ mất khoảng vài giây thay vì mất 2 - 3 ngày, từ đó thúc đẩy việc tiêu dùng của khách hàng, gắn liền hoạt động thanh toán của khách hàng trên thẻ tín dụng. Do vậy, những hoạt động liên quan đến thẻ tín dụng cũng tăng khoảng 45%", ông Phùng Quang Hưng, Phó Tổng Giám đốc thường trực Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam [TechcomBank], cho biết.

Nhiều ngân hàng có nguồn thu ngoài lãi tăng mạnh gấp 2 so với cùng kỳ năm 2021. Trong bối cảnh room tín dụng 5 tháng cuối năm sắp cạn, thu nhập ngoài lãi sẽ có triển vọng tăng trưởng tốt, trở thành động lực thúc đẩy lợi nhuận.

Ngân hàng cạn "room", doanh nghiệp "đói" vốn

VTV.vn - Sau thời gian cấp tập cho vay đầu năm, đến nay, nhiều ngân hàng đã cạn hạn mức này nên buộc phải hạn chế cho vay mới.

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của trên TV Online và VTVGo!

Từ khóa:

ngân hàng, tín dụng, room tín dụng, nguồn thu ngoài lãi, thu nhập ngoài lãi, thẻ tín dụng, thanh toán quốc tế, xuất nhập khẩu, ngân hàng thương mại

Nhiều ngân hàng bứt phá mạnh về lợi nhuận. [Ảnh: CTV/Vietnam+]

Đến thời điểm cuối tháng Tư, đã có một số ngân hàng thương mại công bố kết quả kinh doanh quý 1/2022 với lợi nhuận khả quan; trong đó nguồn thu chủ yếu đến từ phát hành thẻ tín dụng, dịch vụ bảo hiểm và hoạt động thanh toán.

Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam [MSB] ghi nhận đà tăng trưởng ở nhiều chỉ tiêu quan trọng nhờ tập trung vào nhóm khách hàng tiềm năng và gia tăng thu nhập từ phí. Theo đó, tổng thu nhập thuần hợp nhất của MSB trong quý 1 đạt 2.406 tỷ đồng; trong đó thu nhập lãi thuần đạt hơn 1.964 tỷ đồng, tăng hơn 38% so với cùng kỳ năm trước.

Thu nhập từ phí tiếp tục có đóng góp lớn khi ghi nhận 336 tỷ đồng, tăng vượt trội 174% so với cùng kỳ năm 2021, với động lực chính đến từ phát hành thẻ tín dụng, dịch vụ bảo hiểm và hoạt động thanh toán.

[Nhiều ngân hàng bứt phá mạnh về lợi nhuận và tăng trưởng tín dụng]

Nhờ đa dạng hóa nguồn doanh thu và tối ưu hóa chi phí hoạt động nên kết thúc quý 1, lợi nhuận trước thuế hợp nhất của ngân hàng này đạt gần 1.500 tỷ đồng, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2021.

Cũng theo MSB, tính đến hết tháng Ba, tổng dư nợ cho vay khách hàng hợp nhất đạt 110.600 tỷ đồng, tăng gần 24% so với cùng kỳ 2021, với đóng góp chủ yếu từ dư nợ bán lẻ. Số dư huy động từ khách hàng đạt hơn 96.203 tỷ đồng, tăng gần 5% so với cùng kỳ năm trước. Trong số đó, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn [CASA] trên tổng tiền gửi của MSB gia tăng từ mức 35,84% của cuối năm 2021 lên mức 38,33%.

Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam [Techcombank] cũng có tổng thu nhập hoạt động đạt hơn 10.000 tỷ đồng, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2021. Thu nhập từ lãi thuần đạt hơn 8.000 tỷ đồng, tăng 32,4% nhờ danh mục tín dụng được mở rộng và biên lãi thuần [NIM] ổn định. Các khoản thu nhập khác tại ngân hàng cũng ghi nhận nhiều tăng trưởng như thu nhập từ hoạt động dịch vụ tăng hơn 2.000 tỷ đồng, cao hơn 24% so với quý 1/2021, từ các khoản thu phí dịch vụ ngân hàng đầu tư [IB] tăng 35,3%; tiền và các khoản thanh toán tăng 55,1%.

Qua đó, lãi trước thuế tại ngân hàng này trong quý 1 đạt 6.785 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ. Tổng tài sản tính đến ngày 31/3 đạt 615.300 tỷ đồng, tăng 32,9% so với cùng kỳ. Dư nợ cho vay khách hàng cá nhân tăng 49,1% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 171.600 tỷ đồng. Ngân hàng vẫn giữ vị thế đầu ngành về tỷ lệ tiền gửi CASA và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản [ROA], lần lượt đạt mức 50,4% và 3,6%. Tỷ lệ an toàn vốn [CAR] đạt 15,1%.

Cũng trong quý đầu năm nay, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội [MB] ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt 5.909 tỷ đồng, tăng 29% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó thu nhập lãi thuần quý 1 đạt 8.385 tỷ đồng, tăng tới 41% so với cùng kỳ, chủ yếu do thu nhập lãi cho vay và thu lãi từ đầu tư chứng khoán nợ tăng mạnh.

Lãi từ hoạt động dịch vụ của MB quý 1 tăng 4,8% lên 1.117 tỷ đồng. Hiện thu từ kinh doanh dịch vụ bảo hiểm đóng góp lớn nhất vào thu hoạt động dịch vụ của MB. Đáng chú ý, lãi từ kinh doanh ngoại hối tăng 98% lên 467 tỷ đồng. Lãi từ mua bán chứng khoán đạt 1.124 tỷ đồng, tăng 63% so với cùng kỳ. Hoạt động kinh doanh khác lại kém khả quan, chỉ có lãi 538 tỷ đồng, giảm 56% so với cùng kỳ.

Theo đó, tổng thu nhập hoạt động quý 1 của ngân hàng đạt hơn 11.600 tỷ đồng, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Chi phí hoạt động tăng 28% lên 3.598 tỷ đồng. Chi phí dự phòng rủi ro ở mức 2.125 tỷ đồng, tăng 17,5%.

Còn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế [VIB], kết thúc quý 1, ngân hàng này ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt gần 2.300 tỷ đồng, tăng 26% so với cùng kỳ. Tổng thu nhập hoạt động của VIB đạt hơn 4.100 tỷ đồng; trong đó thu nhập lãi thuần đạt 3.500 tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ, thu nhập ngoài lãi đạt 650 tỷ đồng, đóng góp 16% vào tổng thu nhập hoạt động. Tăng trưởng tín dụng ở mức 6,1%, dư nợ gần 217.000 tỷ đồng, huy động vốn tăng trưởng tốt ở mức 7,7%, đạt 302.000 tỷ đồng. 

Lợi nhuận tiếp tục tăng trưởng ấn tượng đến từ việc ngân hàng tập trung vào danh mục tín dụng bán lẻ chất lượng cao, giảm thiểu rủi ro tập trung với gần 90% danh mục là cho vay bán lẻ và 95% có tài sản đảm bảo. Biên lãi thuần [NIM] cũng được cải thiện ở mức 4,5%, nhờ vào chi phí huy động vốn tiếp tục giảm 40 điểm cơ bản so với cùng kỳ. NIM được mở rộng chủ yếu đến từ số dư tiền gửi không kỳ hạn tăng trưởng hơn 40% và các khoản vay từ các định chế tài chính nước ngoài tăng gần 80% so với quý 1 năm trước. Các nguồn vốn giá rẻ này giúp VIB tiếp tục duy trì chi phí huy động ở mức thấp trong diễn biến lãi suất chung trên thị trường có dấu hiệu gia tăng nhẹ./.

Thúy Hà [Vietnam+]

Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống Ngân hàng Thương mại [NHTM] đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng thì ngân hàng thương mại tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lãi suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng.

Mục lục

  • 1 Khái niệm ngân hàng thương mại
  • 2 Chức năng của ngân hàng thương mại
    • 2.1 Chức năng trung gian tín dụng
    • 2.2 Chức năng trung gian thanh toán
    • 2.3 Chức năng tạo tiền
  • 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM
    • 3.1 Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ
    • 3.2 Sự gia tăng cạnh tranh
    • 3.3 Sự gia tăng chi phí vốn
    • 3.4 Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
    • 3.5 Cách mạng trong công nghệ ngân hàng
  • 4 Chú thích

Khái niệm ngân hàng thương mạiSửa đổi

Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:

  • Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
  • Đạo luật ngân hàng của Pháp [1941] cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính".
  • Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật [Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động NHTM]

Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.

Chức năng của ngân hàng thương mạiSửa đổi

Chức năng trung gian tín dụngSửa đổi

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay... Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại.

Chức năng trung gian thanh toánSửa đổi

Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.

Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.

Chức năng tạo tiềnSửa đổi

Là chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận chẳng hạn như yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.

Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTMSửa đổi

Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụSửa đổi

Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ.

Sự gia tăng cạnh tranhSửa đổi

Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.

Sự gia tăng chi phí vốnSửa đổi

Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống [như tiền gửi].

Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suấtSửa đổi

Các quy định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi "trung thành" của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.

Cách mạng trong công nghệ ngân hàngSửa đổi

Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.

Chú thíchSửa đổi

Video liên quan

Chủ Đề