Nhân vật chính trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

HƯỚNG DẪN

Một số nét gợi ý:

* Nhân vật gây được ấn tượng sâu sắc cho người đọc

Đó là nhân vật Phùng - người kể chuyện, cũng là sự hóa thân của tác giả Nguyễn Minh Châu vào nhân vật này. Lời kể chuyện của nhân vật Phùng luôn tỏ ra khách quan, chân thật và giàu sức thuyết phục. Nhân vật Phùng đã có một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, khả năng cao trong việc khám phá đời sống được bộc lộ qua một số tình huống truyện.

Ngôn ngữ từng nhân vật vì thế cũng trở nên phù hợp đặc điểm, tính cách của từng người:

• Nhân vật lão đàn ông có giọng điệu thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ tục tằn, hung bạo.

• Những lời của nhân vật người đàn bà thật dịu dàng, xót xa khi nói với con, thật đớn đau, thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của người phụ nữ hàng chài.

• Những lời của nhân vật Đẩu là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành.

Tất cả các nhân vật ấy đều được thể hiện rất sinh động, chân thực trong ngôn ngữ linh hoạt và đầy sáng tạo, góp phần đắc lực khắc sâu chủ đề - tư tưởng của Chiếc thuyền ngoài xa.

Nhân vật phùng - người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã thật sự gây được nhiều ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Bởi vì:

* Người nghệ sĩ nhiếp ảnh ấy đã phát hiện ra những mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình. Anh đã thấu hiểu rằng: Mỗi người trong cõi đời nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người.

* Là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng mong muốn có được những bức ảnh thật ưng ý. Anh đã sung sướng vô cùng khi đã “chộp” được một cảnh tuyệt đẹp trong một lần “phục kích” tại vùng biển xưa kia là chiến trường cũ của anh. Đôi mắt Phùng - đôi mắt nhà nghề đã phát hiện ra một vẻ đẹp của mặt biển mờ sương. Với Phùng đó là vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có thể bắt gặp được một lần mà thôi:

Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

Phùng đã coi đây là một niềm hạnh phúc được khám phá và sáng tạo. Anh đã ngỡ ngàng bao nhiêu và lại ngập tràn sung sướng bấy nhiêu khi có được một lần bấm máy trước cảnh đẹp tuyệt diệu như vậy.

Phùng đã cảm nhận được trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương kia, anh thật sự bắt gặp cái sâu thẳm của vẻ đẹp thiện mĩ của cuộc sống. Phùng thấy tâm hồn mình bỗng trở nên trong trẻo hơn bởi cái đẹp đằm thắm mà không kém phần lãng mạn ấy.

Như vậy: với phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng, nhân vật Phùng đã có được “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Thế nhưng, phát hiện tiếp theo lại đem đến cho Phùng một sự bất ngờ: Phải chăng đó là trò đùa trớ trêu và quái ác của cuộc sống?

Phùng đã từng cho rằng: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Nhưng, đằng sau cái đẹp toàn bích mà anh đã bắt gặp trên mặt biển xa kia lại chẳng có gì là đạo đức, là chân lý của sự hoàn thiện. Bởi vì, anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền đẹp như một giấc mơ ấy có một người đàn bà xấu xí mệt mỏi và cam chịu bước ra. Cũng từ trong chiếc thuyền ngư phủ ấy có một người đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một cách để giải tỏa bao uất ức khổ đau đã ngấm sâu vào cõi đời mình.

Phùng tận mắt chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và hết sức dã man. Phùng không thể làm ngơ, bởi anh đã từng là người lính cầm súng đi chiến đấu để bảo vệ vẻ đẹp cho thuyền, cho biển quê hương. Nhưng Phùng chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con của lão đàn ông nọ đã kịp tới để che chở cho người mẹ bất hạnh, đáng thương.

Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

Khi chứng kiến cảnh đó, Phùng càng thấm thía rằng: là người lính, người nghệ sĩ chân chính thì không hề dửng dưng trước sự bạo hành của cái ác, cái tục tằn. Dù có bị lão đàn ông đánh trả đến bị thương và được đưa về trạm y tế của tòa án huyện, gặp lại bạn chiến đấu cũ là Đẩu, Phùng vẫn cay đắng nhận ra bao trái ngang của một thực tế gia đình. Những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa kỳ lạ, giúp cho những thước phim mà Phùng đã dày công chụp được bỗng hiện hình lên bao hình ảnh khủng khiếp và ghê sợ. Từ đây, Phùng đã có một cách nhìn đời khác hẳn. Anh hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà cam chịu kia, hiểu thêm thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ của chúng. Anh còn hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội cũ của mình bây giờ đã là một chánh án huyện vẫn luôn tốt bụng và nhiệt thành. Và hơn thế nữa, Phùng lại hiểu thêm về chính mình. Một người nghệ sĩ nhân dân chân chính như Phùng phải có như đa diện vào cuộc sống.

Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tên là Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã thực sự trưởng thành từ chính cuộc đời lao động nghệ thuật của mình. Anh đã không cho phép mình có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản mà cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào tầng sâu lịch sử.

Có thể nói: nhân vật Phùng thực sự thể hiện một cách sinh động sự hóa thân đẹp đẽ của nhà văn Nguyễn Minh Châu, một cây bút văn xuôi đầy bản lĩnh và tài hoa.

“ Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc màbất cứ một nhà văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như lànăm khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là vềtư thế cầm bút, họ được tự do.Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại vănhọc đổi mới. Bắt đầu từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốchành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tăng dần độ rung chấn vào cơ địa vănđàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào nhung nham đổi mới triệt đểcủa văn học nghệ thuật những năm sau đó. Cuộc bung trào nhung nham nàynhư là một nhu cầu nội sinh, xuất phát từ chính bản thân văn học, mặtkhác, từ chính những biến đổi lớn lao của đời sống xã hội. Nhà văn bắtbuộc phải kiểm soát những nhu cầu ấy, rời xa nó tức là chuốc lấy chomình con đường hẹp, mọi sáng tác chỉ như một phế liệu của nghệ thuật màthôi.Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học.Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dướigóc nhìn và phương tiện mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trênchuyến tàu tốc hành, ít nhất, sự truy đuổi ấy đã đặt Nguyễn Minh Châutrước một thử thách triết học: sự tự nhận thức. Nhận thức không chỉdiễn ra dưới công năng của tư duy lí trí, mà dường như còn phải diễn rabằng nhưng luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tốitrong tâm hồn. Cơ mà, cũng phải thấy, đôi khi ông bất lực để lí giải,lí giải cho nhân vật và lí giải cho hiện thực. Nhân vật của ông vượtqua những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thật dựng nên, rơi vào trạngthái “bất khả tri”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vếtthương sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranhkia là khuôn mặt gì của thời đại, của thế hệ, của từng cá nhân; ai biếtđược người đàn bà tên Quì ấy mắc một chứng bệnh cá nhân hay của thế hệ,của thời đại…?. Không dễ dàng đưa ra kết luận, cũng như các nhân vậtkia, không dễ dàng dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắtđồng nghĩa với thiêu rụi sự sống.“Chiếc thuyền ngoài xa” nằm trong mạch sáng tác đòi hỏi cả độc giả vànhà văn phải nhận thức lại hiện thực. Hiện thực bây giờ không đơn giảnlà một vết xước rớm máu trên cánh tay trắng đẹp của cô gái thanh niênxung phong kia mà có lẽ, phải là vết xước trong tâm hồn. Ở đó, mỗi cánhân là một chỉnh thể, một sở hữu của vết xước, bảo toàn và chưng cấtnó khiến sự nhận thức mãi mãi không đưa ra một hệ số bằng lòng.Câu chuyện bắt đầu từ việc Phùng, phóng viên ảnh, đi “săn” một tấm hìnhchụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệthuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán vàquen thuộc. Phùng rời Hà Nội gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển,nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Tâm thếPhùng là sẵn sàng chờ đợi, anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ởvùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh chụp được khá nhiều tấm hình cảnhngư dân đánh mẻ lưới cuối cùng lúc bình minh lên. Nhưng tấm hình đểđời, kiệt tác mà anh hằng mong muốn thì chưa có. Nghệ thuật nhiếp ảnh,qua cách hành xử của Phùng, ít nhiều là thứ quà tặng của thiên nhiên.Và rồi thì anh cũng có một cảnh trời cho: “trước mặt tôi là một bứctranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòenhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng doánh mặt trời chiếu vào… Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sángđều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứngtrước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắtvào”. Những cảm xúc nghệ thuật mà Phùng đón nhận trước vẻ đẹp thiênnhiên quả làm cho ta cảm động. Nó là niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng củakẻ luôn sẵn ý thức và trách nhiệm với con đẻ tinh thần mà mình hằng tâmnuôi dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái “lên đồng”, một trạng thái cần cótrước lúc sinh thành những cảm xúc sáng tạo: “trong giây phút bối rốiấy, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toànthiện, khám phá cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Vào khoảnhkhắc đó, Phùng hoàn toàn thành tâm với nghệ thuật, nó vừa là cái toànthiện, cái đạo đức, cái trong ngần, vừa là hạnh phúc…Anh được nó nângđỡ, ban tặng đồng thời sáng tạo nó, cảm nhận nó. Và trong chốc lát anh“bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim”. “ Cái đẹp tuyệtđỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong ống kính có lẽ là cái đẹp đạođức của thiên nhiên. Thiên nhiên, ngay cả khi dữ dội nhất, tàn nhẫnnhất, người ta vẫn thu được khoảnh khắc rất đẹp: núi lửa, tia chớp,sóng thần, bão cát … Thiên nhiên là bản thể tự nó. Cái gọi là “vẻ đẹp”kia chẳng qua là một chuỗi những thỏa thuận nằm ngoài nó, do con ngườitạo nên.Nhưng câu chuyện đột nhiên chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắctrời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thựccuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác,có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải,nhận thức hiện thực.Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạcđến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồichẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhàotới”. Phùng lao tới nơi người đàn ông “tấm lưng rộng và cong như lưngmột chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻđộc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà“cao lớn với những đường nét thô kệch”, “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc,hai hàm răng nghiến ken két”… Nhưng Phùng đã bị cản lại bởi “bóng mộtđứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giậtchiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, lão “dang thẳng cánh tay chothằng bé hai cái tát”. Rồi lão lẳng bặng bỏ đi về phía bờ nước để trởvề thuyền. Kết thúc cái cảnh tượng ấy, “bãi cát lại trở về với vẻ mênhmông và hoang sơ”, chỉ còn Phùng, cậu bé Phác và tiếng sóng ngoài khơi,tất cả chìm vào cõi im lặng…Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”. Một hiện thực hiển nhiên màkhông thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ củachồng. Người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm vàbản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính chamẹ chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa điqua. Tất cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và toàn bích củathiên nhiên. Một hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnhphúc của người nghệ sĩ. Một nỗi đau và dìm nén nỗi đau, một bình yên vàphá hoại bình yên, một dư chấn và một khoảng lặng cứ đan cài nhau giữamuôn trùng tiếng sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ quáiđản, tất cả đều biến mất, tất cả cứ lặp lại…Lần thứ hai chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh đánh quật gãđàn ông vũ phu bằng cú đánh của người “không cho phép hắn đánh mộtngười đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kínđáo cho hắn đánh …”. Phùng nhân danh một người lính- những người đã đổmáu để giành lại bình yên cho đồng bào mình, chăng? Hay ở anh còn cómột động cơ “đạo đức” của người nghệ sĩ - người biết thưởng thức và giữgìn vẻ đẹp toàn thiện chứ không phải là toàn ác, tha hóa?Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án huyện phụ tráchđịa bàn, can thiệp vào trường hợp gia đình vợ chồng thuyền chài này.Những cú đánh của Phùng chỉ là phản ứng nhất thời, anh cần đến tiếngnói của một quan tòa. Nhưng rút cuộc, cả Đẩu và Phùng chỉ như những đứatrẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời thú tội, kể lểcủa người đàn bà: “Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòngcác chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chúđâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Hóara, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “bấtkhả tri”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận màmình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗiđau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều conquá. Điều đó đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy giađình này. Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻnhiều, mà nó cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tộingậm ngùi, chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trảlời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗikhó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa,phi đạo đức.Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh củađời sống chài lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Có phải là một ChíPhèo, một quĩ dữ bước ra từ cái làng chài hẻo lánh kia không? Tại sao,dưới xã hội mới này, nơi mà “giấc mơ đại tự sự” đã lan tỏa trong mọikhông gian nhỏ hẹp của đời sống, vẫn có những mảnh đời đau đớn, tha hóakia?Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những conngười tội nghiệp?. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi rađánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Sau này con cái lớn lên,tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ ràng, đây là mộtgiải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau đớn.Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nàohiểu được”. Họ không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại chấpnhận sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của ngườiđàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn dừnglại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu đáysâu của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ.Tình huống mà Phùng không lường trước trong chuyến đi này có phải làtình huống dựng của nhà văn? Nhà văn đặt nhân vật và độc giả vào mộttình huống phải nhận thức. Nhưng nhân vật đã không lí giải được hiệnthực, tiếng nói của quan tòa cũng trở nên lạc lõng. Họ chấp nhận nóbằng những thỏa thuận bên ngoài. Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biểnđộng, gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn ăn, đói rách.Cái cảnh tượng thường tình kia, sẽ lại xẩy ra. “Con sói con” - cậu béPhác, lại phải thủ một con dao trong mình để trấn áp người cha, trấn ápngười đàn ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như vết xước trở đi trởlại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối.Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi, nhất là trongcác gia đình sành nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau bứcảnh thì không thể xóa mờ. Đằng sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia cũng là nỗi đauvĩnh viễn. Nghệ thuật đã che giấu, khỏa lấp cái tha hóa, phi đạo đức?Hay nghệ thuật “bất khả tri” trước hiện thực ?. Cũng như chiếc thuyềnngoài xa, nghệ thuật chỉ có thể nắm bắt được cái bóng của nó, cái bóngcủa hiện thực. Vẻ ngoài của nghệ thuật, đôi khi như màn sương làm “mờhóa” khả năng tri nhận ở chúng ta. Bất khả tri trở thành niềm day dứtcủa người nghệ sĩ. Với người nghệ sĩ, thiên chức là ngưỡng vọng và sángtạo một vẻ đẹp toàn thiện nhưng sẽ là kẻ tội đồ nếu vẻ đẹp ấy làm chekhuất và quên đi những bất hạnh trong đời. Cái đẹp không chỉ là đạođức, nó là sự phản tỉnh.Cá nhân Phùng, Đẩu sẽ không đủ sức lí giải, chấm dứt bi kịch của giađình thuyền chài kia. Họ chưa đủ làm ánh sáng để xua đi vùng tối trongtâm hồn những con người bé nhỏ, khổ đau. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên,Phùng hoàn toàn thấu nhận. Trước số phận của người đàn bà, Phùng làngười ngoài cuộc. Mâu thuẫn đó dường như đeo đẳng suốt hành trình sángtạo của nghệ thuật.“Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn giàu chất điện ảnh do có sựgia tăng của kiểu chi tiết – hình ảnh. Trường đoạn Phùng chứng kiếnngười chồng hành hung vợ là trường đoạn được kể bằng hình ảnh. Nó diễnra dưới một cú quay toàn cảnh kéo dài. Kịch tính đến nghẹt thở, bất ngờđến choáng váng. Yếu tố “động” của chi tiết được bao bọc trong sự yêntĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di chuyển. Lời thoại rút giảmtối đa, những hình ảnh khô khốc và bạo liệt. Tiếng nghiến răng ken kétcủa gã đàn ông vũ phu, tiếng thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bàngưng đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc- người xem vào những mao mạch trí nhớ khác nhau, hoặc rát buốt hoặc têcóng hoặc câm nín. Kết thúc trường đoạn, cảnh vật trở nên bình lặng,yên ả như chưa hề nhuốm sắc thái bạo lực khốc liệt. Một sự trả về hờhững của thiên nhiên. Ống kính dừng lại ở một khoảnh khắc bình yên mànhức buốt tâm can…Sử dụng yếu tố điện ảnh, Nguyễn Minh Châu tạo nênhiện thực gần như một cuốn phim tư liệu, chân thực và xúc động.Là kiểu truyện ngắn mở ra tình huống nhận thức, Nguyễn Minh Châu còn sửdụng tính biểu tượng. Biểu tượng từ việc đặt tên nhân vật (Phùng - gặpgỡ, chứng kiến, ngụ ý người quan sát; Đẩu - vị phán quyết; Phác - sựthuần hậu, ngụ ý một phẩm chất của nghệ thuật; đứa con gái của vợ chồngthuyền chài – nàng tiên cá, ngụ ý vẻ đẹp bí ẩn mà cuộc sống ban tặng )đến biểu tượng trung tâm: chiếc thuyền ngoài xa. Chiếc thuyền ngoài xahay là sự bất khả tri, là một hiện thực khác chìm khuất sau những điềuchúng ta có thể kiểm soát và chứng kiến được? Chiếc thuyền ngoài xa mãimãi là một khát vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khichiếc thuyền vẫn còn ở ngoài xa, những định giá và huyễn tưởng về nóvẫn chỉ nằm trong một lớp sương mờ ảo mà thôi.Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, đất nước vẫn chưa thoátkhỏi dư chấn của chiến tranh, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Sốphận cá nhân nằm im dưới lớp băng hà của “giấc mơ đại tự sự”. Với nhữngdự cảm thời cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn MinhChâu đã giúp lớp băng hà kia có những vết nứt cần thiết. Vết nứt đểnhìn ra vùng tối, và có thể, đón nhận vùng sáng.