Những bài văn lí luận văn học hay năm 2024

                                          

❌Đừng viết: Tác phẩm văn học hướng con người vào thế giới bên trong để tự tra vấn, lắng nghe những tiếng lòng, tâm tư tình cảm thầm kín nhất và đối diện với bản thân mình. Và cũng từ đây, văn chương vun đắp cho mỗi con người một nhân cách riêng, một góc nhìn, một thế giới quan đậm màu sắc cá nhân. Như vậy, đọc tác phẩm văn học chính là lúc con người tìm thấy chính mình và khám phá được thế giới nội tâm đầy bí ẩn. ✅Hãy viết: Marcel Proust đã viết một cuốn tiểu thuyết dài về các nhân vật thuộc tầng lớp quý tộc và tư sản cao cấp sống ở Pháp đầu thế kỷ 20 trong đó ông khẳng định: "Trên thực tế, mỗi độc giả, trong khi đọc, thường trở thành độc giả của chính mình. Tác phẩm của nhà văn chỉ đơn thuần là một dụng cụ quang học mà anh ta đưa ra cho độc giả để giúp độc giả có thể nhận thức những điều chưa biết." Khi Proust gọi văn chương là "dụng cụ quang học" có thể thấy nhà văn đề cao sức mạnh văn chương trong công cuộc giúp mỗi chúng ta "tra cứu" về cái thế giới nội tâm đầy bí ẩn và phức tạp của chính mình.

❌Đừng viết: Nhà văn Andersen đã từng nói: "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện cổ tích do cuộc sống viết ra". Cái đẹp đến từ cuộc sống là cái đẹp vô cùng phong phú và đa dạng. Cuộc sống luôn là mảnh đất màu mỡ để những tác phẩm văn chương nảy mầm. Mỗi người nghệ sĩ cần ý thức rằng tác phẩm văn học của mình phải phản ánh được thời đại mà nó ra đời. ✅Hãy viết: Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh viết, "Văn chương là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng". Phải thú nhận một sự thật rằng không phải cuộc đời nào cũng truyền cảm hứng tạo nên một tác phẩm vĩ đại, nhưng chắc chắn những tác phẩm vĩ đại đều được truyền cảm hứng từ cuộc đời. Văn học gắn bó mật thiết với hành trình của đời người và đến với cuộc sống con người bằng sự đồng điệu của tâm hồn.

❌Đừng viết: Người nghệ sĩ qua tác phẩm văn chương đem tiếng nói của mình, tư tưởng của mình và truyền tải tất cả những điều đó đến độc giả, giúp người đọc thỏa mãn nhu cầu nếm trải sự sống muôn hình vạn trạng. Đến với văn học, ta không chỉ khám phá, nhận thức hiện thực mà còn cảm nhận, hiểu biết tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của nhân loại và chính mình. Đó chính là lí do mà Tố Hữu viết đầy trân trọng: "Nghệ thuật là những câu trả lời đầy thẩm mĩ cho con người, thay đổi, cải thiện thế giới tinh thần của con người, nâng con người lên". ✅Hãy viết: Jhumpa Lahiri đã từng chia sẻ về nghề: "Trở thành người viết là làm một bước nhảy vọt, từ chỗ lắng nghe sang cất tiếng: "Hãy nghe tôi này". Và từ sự cất tiếng ấy mà nhà văn có thể dễ dàng đem tiếng nói của mình đến với đông đảo người đọc. Không chỉ đơn thuần như những lời nói thường trong sinh hoạt, tiếng nói văn nghệ tác động mạnh mẽ đến thế giới tinh thần con người. Nghê thuật luôn ẩn chứa sức mạnh cao cả giống như cách mà Tố Hữu viết: "Nghệ thuật là những câu trả lời đầy thẩm mĩ cho con người, thay đổi, cải thiện thế giới tinh thần của con người, nâng con người lên".

❌Đừng viết: Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm và từ đó nhân vật ấy trở thành người bạn thân tín trong cuộc sống của chúng ta. Nhớ đến Từ Hải là hiểu thêm về khát vọng tự do, công lí của Nguyễn Du. Nhớ đến nhân vật trong truyện cổ tích là hiểu thêm vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người... ✅Hãy viết: Charlotte Delbo phát hiện ra rằng các nhân vật trong sách vở có thể trở thành những người bạn đồng hành khả tín: "Những nhân vật do nhà văn sáng tạo nên nó thật hơn cả những người bằng máu thịt, vì họ vô tận. Cho nên họ là bạn, là người đồng hành của tôi, là kẻ nhờ đâu mà chúng ta liên hệ với người khác trong cái móc xích nhân loại và móc xích lịch sử". Phải chăng đó là lí do mà ngày hôm nay ta vẫn còn bồi hồi về sức sống của những nhân vật trong "Truyện Kiều", vẫn bâng khuâng man mác khi Tố Hữu hồi tưởng:

"Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu

Trái tim lầm chỗ để trên đầu

Nỏ thần sơ ý trao tay giặc

Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu".

Nguồn: Văn ôn võ luyện NTL

                              
Đoạn 1 [Sưu tầm]: “Đối với đời sống con người, văn chương trở thành món ăn tinh thần, món ăn không thể thiếu được. Văn chương đi suốt chiều dài lịch sử loài người. Văn chương là người bạn, theo con người mà lớn lên. Sự tồn tại của văn chương là vĩnh cửu như vậy chứng tỏ giá trị mà nó mang theo. Nó chứng tỏ rằng các ngành khoa học khác không thể thay thế nổi nó. Các ngành khoa học khác đã đem đến cho con người những hiểu biết toàn diện về cuộc sống, về xã hội, chỉ trừ một điều phức tạp, tinh vi nhất trong những điều phức tạp và tinh vi: đó chính là tình cảm con người. Nghiên cứu về tâm hồn của con người, văn chương làm ta hiểu biết chính ta hơn, khám phá những khúc ngoặt quanh co của lòng mình, làm con người có ý thức sáng tạo lại chính mình, hoàn thiện mình trở nên tốt đẹp hơn... con người là thành phần cơ bản, là chủ nhân của xã hội. Văn chương tác động đến con người, nghĩa là nó chứa những tia sáng vô hình xoay nắn và cải tạo xã hội. Hoàn toàn chính xác khi đồng chí Phạm Văn Đồng nhận định: “Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội.”.” Đoạn 2 [Sưu tầm]: “Tất cả những điều văn học đem lại cho con người, giúp con người “hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại xã hội” như một sự hưởng thụ - hưởng thụ và tiếp nhận những gì cao đẹp nhất, trong sáng nhất. Hưởng thụ đem đến cho người đọc cảm giác về cái đẹp - khoái cảm thẩm mĩ. Văn học giúp đỡ và “dạy khôn” [Các Mác] con người. Nhưng những điều nó mang đến cho ta lại hết sức nhẹ nhàng, và những điều ấy cứ từ từ ăn sâu và bền vững tâm hồn ta. Vì thế, những điều văn chương dạy ta trở nên có tác dụng rất lớn. Và cũng vì thế, thái độ của những người thưởng thức văn chương không thể giống như nghiên cứu luận cương, báo cáo khoa học khác. Cầm cuốn sách trên tay, đừng bao

giờ đọc lướt qua để nắm lấy vài tình tiết éo le, mùi mẫn, hoặc để nắm lấy cốt truyện rồi thôi. Hãy đến với văn chương như trái tim đến với trái tim, tâm hồn đến với tâm hồn. Hãy tìm đến văn chương với khát khao mãnh liệt, với niềm tin yêu và trách nhiệm đối với cuộc sống. Chỉ khi đó, văn chương mới có tác dụng với bạn. Và chỉ khi đó, văn chương mới thực sự là bạn của con người.” Đoạn 3 [Sưu tầm]: “Hiểu về nghĩa vụ lớn lao của người cầm bút, thiết nghĩ, nhà văn cần có trách nhiệm hơn trong sáng tác. Sáng tác không đơn thuần là chuyện giải trí, là chuyện đưa ra những nhìn nhận chung chung. Sáng tác phải để xây dựng cuộc sống. Thời đại và con người - độc giả - ngày nay đòi hỏi các nhà văn, nhà thơ phải nắm được yêu cầu trung tâm của thời đại, nhưng phải viết dưới sự nhận thức của riêng mình, trái tim và khối óc mình. Người đọc không thể nào chấp nhận những cảm xúc, những suy nghĩ “kịch” của người viết. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. “Vì thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy” [Phạm Văn Đồng].”

Tài liệu diễn đạt LLVH| Sưu tầm và biên soạn

4

Đoạn 4 [Sưu tầm]: “Cuộc sống là một vườn hoa đầy hương sắc. Như những con ong cần mẫn làm mật cho đời, nhà văn không chỉ đem đến cho người đọc một nội dung có tính thông điệp mà còn mong muốn tác phẩm của mình có sức mạnh làm rung động hàng triệu tâm hồn. Muốn thế phải làm cho người ta tin, mà chỉ tin được nhờ ở sự chân thực. Đó là lí do đơn giản để Nam Cao cho rằng: nghệ thuật “không cần” và “không nên là ánh trăng lừa

“Đương nhiên, văn học có tính độc lập tương đối của nó. Hiện thực trong văn học và hiện thực ngoài cuộc đời không phải là hai bàn tay úp khít vào nhau mà đan cài vào nhau, ở đây, mọi sự đơn giản hoá, mô hình hoá, mọi sự áp đặt, mệnh lệnh, khiên cưõng “đẽo chân cho vừa giày” đều là những điểm nên tránh. Chúng ta phản bác những lập luận và sáng tác của những trường phái siêu thực, hiện sinh, cũng đồng thời phê phán cách biểu hiện của những tác phẩm cứ tưởng như được viết bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất không biểu hiện được cuộc sống thực, lóc cóc chạy đằng sau cuộc sống, chỉ biết ca tụng một chiều, giấu giếm nỗi đau, những tác phẩm đã không nói được thực trạng của hiện thực đương thời, càng không thể có chức năng dự báo.”

Tài liệu diễn đạt LLVH| Sưu tầm và biên soạn

5

Đoạn 7 [Sưu tầm]: “M. Go-rơ-ki trong suốt cuộc đời mình, với những trước tác đồ sộ, đã dành hẳn một khoảng lớn cho tác phẩm Trường đại học của tôi, miêu tả những cảnh đời cơ cực mình đã đi qua. Có thể xem đó là một định nghĩa đầy văn học cho sự tương tác giữa nhà văn với cuộc sống, đó là một đặc trưng thẩrn mĩ của văn học, của tác phẩm văn học mà nhịp nối là nhà văn - chủ thể sáng tạo. Cuộc sống với những hiện thực phong phú phức tạp vừa là đối tượng hướng tới, vừa là nguồn mạch nuôi dưỡng văn học. Quay lưng lại với cuộc sống, mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ là một kỹ xảo. Lục Du - người đã viết hàng trăm câu thơ, lúc sắp mất trối lại cho con, lời trăn trối mang sức nặng chiêm nghiệm của một hồn thơ tài năng, đi trọn cuộc đời mới thấu hiểu nổi cái lẽ “Công phu của thơ là ở ngoài thơ". Thì ra, sức nặng của trang thơ, của những

con chữ lại chính ở cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia. Nhà thơ phải đến đó, phải tìm đến đó, để ngòi bút viết lên từ thứ mực chưng cất bằng chính cuộc đời đầy phức tạp, bộn bề bao thanh âm của mọi số phận. Văn học ra đời từ cuộc sống một cách tự nhiên như đã trở thành quy luật, thông lệ nó quy trở về để khám phá thể hiện lại cuộc sống. Đứa trẻ lớn lên ngày càng một cứng cáp, tự khẳng định mình. Văn học càng cường tráng càng phải đẫm mình trong bầu sữa của bà mẹ cuộc sống. Nhà văn phải là người, nói như Nam Cao: mở lòng hòa với cuộc đời, đón bắt mọi âm thanh của cuộc sống [một ý văn trong Trăng sáng]. Và đó là điểm mấu chốt quyết định thành công nghệ thuật của văn thương mọi thời.” *Trước tác: viết nên một tác phẩm - với sự [trang trọng]. [với những trước tác đồ sộ, những trước tác bất hủ, trước tác văn thơ, nghề trước tác] Đoạn 8 [Sưu tầm]: “Văn học thể hiện con người đồng thời thể hiện cuộc sống, cao hơn còn từ góc độ nhân văn. Mối quan hệ con người và văn học bên cạnh sự kết dính của việc khám phá thể hiện cuộc sống, còn là đối tượng của thẩm mĩ. Con người trong đó có cả quá trình khẳng định và chiếm lĩnh tự nhiên. Từ một dáng đứng thẳng đến một tư thế bay lên và làm chủ vũ trụ tất cả đó là đối tượng thẩm mĩ của văn học nghệ thuật. Nó đòi hỏi ở nhà văn không phải chỉ là độ sắc sảo của trí tuệ thêm vào đó là cái tình nồng mặn thủy chung bền chặt trước cuộc đời, trước con người. Không phải chỉ là vốn sống quan trọng hơn, mà là nhân cách sống. Sống thờ ơ ghẻ lạnh, như một kẻ bàng quan quyết không thể khám phá nổi con người - một đối tượng của thẩm mĩ. Truyện Kiều của Nguyễn Du có những hiện thực của “những điều trông thấy” nhưng phải được chắt ra từ những giọt nước mắt "đau đớn lòng" của thi sĩ suốt mười mấy năm chìm nổi. Nhà văn phải sống hòa nhập vào cuộc đời để thu hút lấy những rung động của xã hội, của loài người.

“Người sáng tác, nói một cách hình ảnh chính là người điều binh khiển tướng. Sử dụng ngôn ngữ chính xác, giàu hình ảnh và xây dựng những hình tượng hấp dẫn thì đương nhiên tác phẩm ấy sẽ đưa người đọc vào mê hồn trận, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ lí thú này đến lí thú khác. Nhà văn như một đại diện cao quý của sứ mệnh xướng ngôn tiếng nói con người về cuộc đời phải dùng tiếng nói của mình để hòa sắc cùng tiếng nói con người mỗi ngày thêm phong phú, thêm dạt dào và sâu sắc. Đồng thời nhà văn phải viết để trợ giúp con người vượt qua những khúc mắc, gian khó của cuộc đời, và tiếp thêm cho họ động lực bước vào con đường chân - thiện - mĩ. Với văn học, ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện loại hình, là cách thể hiện. Và như vậy, một tác phẩm hay cũng phải là một tác phẩm đạt đến trình độ tiêu biểu về ngôn ngữ, về nội dung và cô đọng trong cảm xúc của người nghệ sĩ.” Đoạn 11 [sưu tầm]: “Thơ là sản phẩm của tâm hồn. Nói cụ thể hơn, thơ là con đẻ của những trạng thái tâm hồn. Ngay điều đó so với quá trình tạo tác ra các sản phẩm khác, nó đã đặc biệt lắm rồi. Mỗi tâm hồn là một vương quốc riêng, đầy bí ẩn, tuy giữa những tâm hồn có những làn sóng giao thoa nhau. Chính vì thế nên thơ không thể là sự “cộng tác” của những tâm hồn, cho dù là “những tâm hồn đồng điệu”. Nó là “một việc do cá nhân thi sĩ làm”. Có thể trong một phút rung động, một trạng thái khác thường, tràn đầy cảm xúc của thi sĩ, thế là thơ ca ra đời. Phút rung động ấy ở nhà thơ này không giống nhà thơ khác. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, cá nhân người nghệ sĩ có vai trò quyết định. Một tác phẩm xuất sắc là kết quả sáng tạo của một thi sĩ, ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, không có sự trùng lặp. Điều đó giúp chúng ta cắt nghĩa tại

Tài liệu diễn đạt LLVH| Sưu tầm và biên soạn

7

sao cho đến bây giờ chế độ tốt đẹp của chúng ta vẫn chưa sản sinh ra được một Nguyễn Du, một Truyện Kiều thứ hai.” Đoạn 12 [sưu tầm]: “Có lẽ nghệ thuật là điểm tựa vững chắc cho hồn người. Những lúc con người cô đơn, tuyệt vọng thì văn chương trở thành người bạn tâm tình và chia sẻ. Làm thơ là cả một quá trình lao động nghệ thuật nặng nhọc và lâu bền. Nhưng theo tôi, đấy cũng chỉ là một trong những yếu tố tạo nên “sức nặng” cho bài thơ. Thời đại càng điêu tàn thì văn chương càng nở hoa, bởi khi ấy con người chỉ còn một điểm là văn chương, nghệ thuật. Điều quan trọng hơn có lẽ phải kể đến tài năng của cá nhân, đôi khi do bẩm sinh của người nghệ sĩ. Bông hồng vàng của Pautopxki có cái lóng lánh sắc vàng của những vảy vàng góp nhặt bàn tay lao động, bằng sự miệt mài, bằng nghị lực phi thường. Nhưng thật thiếu sót, nếu chúng ta không cảm nhận được ở đó cái duyên dáng rất riêng của bàn tay sàng sẩy. Tôi nghĩ, chính cái khác biệt, cái riêng lẻ là phần tạo nên giá trị của Bông hồng vàng, làm cho chúng ta luôn nhớ Pautopxki.” Đoạn 13 [Sưu tầm]: “Chất “cá tính” làm cho tác phẩm khỏi “khô khan” và “nhạt nhẽo”, làm cho thơ nói được điều ngàn xưa đã nói mà vẫn mới mẻ như thường. Công chúng đến với thơ đâu phải để tìm những tri thức về đời sống con người và xã hội, mà họ còn thú vị trước sự độc đáo của một tâm hồn, trước tài năng của đồng loại. Bởi thế, nhà thơ phải có cá tính, có sự độc đáo. Những phẩm chất đó sẽ khắc chạm thơ anh vào tâm trí người đọc, khẳng định sự tồn tại của tác phẩm nghệ thuật. Thơ vốn cần có cá tính, cá tính này có giá trị thẩm mĩ, để thông qua tâm hồn nhà thơ nói lên những điều mọi người cùng trăn trở, lo toan. Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải là một chiếc vỏ ốc nhỏ bé mỏng manh lấp

có ai để bênh vực ” [Nguyễn Minh Châu].” Đoạn 16 [Sưu tầm]: “Một tác phẩm văn chương chân chính trước hết phải là sự thực ở đời, thậm chí hiện thực trong sáng tác văn chương còn cao hơn, thật hơn sự thật ngoài đời. Bởi hình tượng nghệ thuật phải là hình tượng điển hình, khái quát, khách quan của những cá thể, nhân vật của cuộc sống. Con người đọc những trang văn mà cũng như bắt gặp chính mình ở trong đó. Nhiệm vụ của người nghệ sĩ không phải là sao chép tự nhiên mà phải là biểu hiện sự tự nhiên. Thực tế cuộc sống phải là một cái gì đó lớn lao bén nhọn “phải được nén chặt, gọn mà nặng” [Nguyễn Quang Sáng], nhà văn phải có khả năng nắm bắt bản chất cuộc sống ở độ sâu tế vi nhất. Qua các tác phẩm văn chương, người đọc không chỉ nắm bắt được vấn đề xã hội, mà còn nhận ra tư tưởng, quan điểm, lập trường sáng tác của nhà văn. Còn gì đẹp hơn khi nhà văn viết về cuộc sống để ngợi ca con người? Văn chương thật lớn lao và đầy ý nghĩa khi đi sâu và khám phá từng cảm giác và suy nghĩ, thiên về chiều sâu của nội tâm. Để ta ỵêu quý và trân trọng những con người bình dị nhất. Để ta phải giật mình sửng sốt khi nhận ra vẻ đẹp lấp lánh ẩn chứa bên trong những hình hài tưởng như gàn dở, xấu xí. Đó là lúc nhà văn lí giải cuộc sống theo cách riêng của mình và được mọi người chấp nhận. Mỗi trang văn có sức khuấy động lòng người, khơi gợi những tình cảm thẩm mĩ tốt đẹp trong lòng ta. Viết về cái ác không phải để học tập mà giúp con người nhận ra bản chất, căm ghét, tránh xa, để hướng tới cái đẹp, cái cao cả. Nhà văn viết về cái ác không phải để con người xa lánh mà là thương xót, đồng cảm. Văn chương lúc đó gợi dậy khát khao cứu rỗi linh hồn, cảm hóa con người trong lòng độc giả. Đó chính là lúc độc giả trở thành người đồng sáng tác. Những dằn vặt, trăn trở, thậm chí là cả máu và nước mắt cho những thân phận xót xa, đầy đau khổ.

Văn chương không đơn thuần là văn chương mà phải là những trang đời chứa đựng những triết lí nhân sinh cao cả. Nhà văn lúc đó trở thành nhà nhân đạo chủ nghĩa, luôn xót thương đồng cảm, thậm chí hướng tới khát khao, mơ cho con người một cuộc sống đẹp đẽ hơn, công bình hơn, bác ái hơn, Để những thân phận bi kịch nhất cũng được ấm lòng bởi tình thương sâu sắc. Để những con người “cùng đường tuyệt lộ” nhất cũng khao khát ước ao một giấc mơ hạnh phúc. Văn chương chân chính không chỉ chứa đẩy tình thương mà phải gợi lòng tin, bản lĩnh sống cho con người. Nó không chỉ đưa con người hướng tới cái đẹp mà còn tiếp thêm sức mạnh để con người hướng tới và hoàn thiện cái đẹp.”

Tài liệu diễn đạt LLVH| Sưu tầm và biên soạn

9

Đoạn 17 [Sưu tầm]: ““Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Câu nói hiển nhiên như một chân lý không thể phủ nhận. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải đề xuất được một tư tưởng mới mẻ. Một nhà văn có tầm cỡ hay không, tôi nghĩ yêu cầu đầu tiên là nhà văn ấy phải là một nhà tư tưởng. Nghĩa là ông ta phải có phát hiện riêng của mình về chân lý đời sống, có những triết lý riêng của mình về nhân sinh. Bởi xét đến cùng, thiên chức cao cả của văn chương nghệ thuật là phản ánh con người và hướng tới phục vụ đời sống con người. Văn học là một hình thái ý thức tinh thần; bởi thế, nhà văn khi viết tác phẩm không thể không bộ lộ tư tưởng của riêng mình, chủ kiến của riêng mình trước những vấn đề của cuộc sống. Làm sao văn học có thể thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng của mình là bồi đắp, làm giàu đời sống tinh thần của con người, nếu như người viết không gửi được vào tác phẩm của mình tư tưởng

ý kiến của Nguyễn Khải là lời tâm niệm của những ai quyết thuỷ chung với văn chương nghệ thuật: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật”.”

Tài liệu diễn đạt LLVH| Sưu tầm và biên soạn

10

Đoạn 19 [Sưu tầm]: “Nhà văn - đó là người nghệ sĩ trong lĩnh vực văn chương. Công việc và phương thức lao động của người nghệ sĩ ấy chính là “sáng tạo” - khai sinh, đem lại một điều gì mới mẻ, nó không trùng lặp với những gì đã có, nó mang đậm dấu ấn cá nhân của người đã tạo nên nó. Năng lực sáng tạo trong nghệ thuật giúp cho nhà văn tạo ra cả một “thế giới của riêng mình” - một thế giới nghệ thuật mới không còn trùng khít với hiện thực và cũng không trùng khít với những thế giới nghệ thuật khác. Và mỗi nhà văn đều có khả năng tạo ra một thế giới riêng như vậy, chỉ từ “chừng ấy kí tự, từng ấy con chữ” - từ những vật liệu có giới hạn - điều đó cho thấy năng lực sáng tạo ở mỗi nhà văn là vô cùng to lớn, đến mức ngay cả khi chỉ sáng tạo từ những chất liệu mà ai cũng sử dụng, chỉ xuất phát từ hiện thực quanh mình, một nhà văn tài năng vẫn đủ sức tạo ra cho mình cả một thế giới riêng. Nhưng thế giới riêng ấy không phải chỉ ra đời cho riêng nhà văn

  • nó không phải là thế giới chỉ dành riêng cho nhà văn, không phải chỉ có ý nghĩa với một mình nhà văn, mà còn có thể có giá trị cho cả cuộc đời, cho tất cả mọi người, cho toàn nhân loại. Bằng khả năng sáng tạo, nhà văn xây dựng nên cho mình cả một thế giới riêng. Một thế giới của riêng nhà văn, nhưng tuyệt nhiên không làm cho nhà văn xa rời loài người...” [trích bài văn đạt giải Ba HSGQG năm 2023]

Đoạn 20 [Sưu tầm]: “Xuất phát từ suy nghĩ cá nhân, song dường như bằng sự trải nghiệm của một đời nghiên cứu, Hoài Thanh đã đồng cảm được những trăn trở của nhiều người đọc khi đến với một bài thơ hay. Ai từng băn khoăn trước một câu ca dao ngọt ngào, từng say đắm một vần thơ sẽ rất thấm thía điều này. Quy luật tiếp nhận cho thấy dường như có một vận động trái ngược. Những tác phẩm không có gì mới sẽ bị thời gian đào thải. Nhắc đi nhắc lại điều cũ, diễn lại một vài cách rất quen, cũng giống như con khướu, con vẹt bắt chước tiếng người; sớm muộn ngày một ngày hai sẽ phôi phai. Lại có những tác phẩm mãi tồn tại như một dấu khắc trong trái tim muôn người, thôi không được luận bàn. Nó ẩn chìm bao tầng sâu ngữ nghĩa, bao lớp ngôn từ độc đáo mà mỗi người đọc bằng sự tìm tòi riêng sẽ thấy những tầng vỉa lấp lánh. Không phải ngẫu nhiên mà Leptonxtoi từng tâm niệm: khi đứng trước một nhà văn, điều đầu tiên chúng ta bao giờ cũng hỏi liệu anh ta có đem đến một cái nhìn mới, một cách thể hiện mới hay không? Tôi từng thích thú với hình ảnh đất nước quyện trong nỗi nhớ hương cốm mới, từng ngỡ ngàng vì sao một chút hương mong manh thế, thảng hư thế mà vương được hồn quê. Cứ ngỡ đó là một đất nước đẹp nhất. Vậy mà đến với chương V trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước mọt lần nữa sống dậy trong tôi. Gần gũi mà thiêng liêng. Quá khứ trong hiện tại. Vô hình trong hữu hình. Đất nước đâu gì xa lạ mà ngay trong miếng trầu bây giờ bà ăn. Câu thơ nghiêng nghiêng cái nhìn của huyền thoại, của truyền thống văn hóa từ nghìn đời. Mới hay, mỗi bài thơ là một hình sắc riêng. Người đọc đến với tác phẩm là để tìm những suy nghĩ sâu sắc, thấm thía một cách nhìn, một cách nghĩ, một cách xúc cảm say mê trong khoái cảm thẩm mĩ mà một cách nói đem lại.”

Chủ Đề