Phạm vi điều chỉnh của Hiệp định về mua sắm Chính phủ năm 2012

Trong thương mại quốc tế, khi tiến hành những hoạt động mua sắm, các chính phủ thường muốn dành “sự ưu tiên” cho các nhà cung cấp trong nước thông qua việc sử dụng một số biện pháp như quy định các quy tắc mua sắm ưu tiên; cấm mua các sản phẩm, dịch vụ nước ngoài hoặc từ nhà cung cấp nước ngoài;

Trong thương mại quốc tế, khi tiến hành những hoạt động mua sắm, các chính phủ thường muốn dành “sự ưu tiên” cho các nhà cung cấp trong nước thông qua việc sử dụng một số biện pháp như quy định các quy tắc mua sắm ưu tiên; cấm mua các sản phẩm, dịch vụ nước ngoài hoặc từ nhà cung cấp nước ngoài; hạn chế cơ hội tiếp cận đối với hoạt động mua sắm Chính phủ của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nước ngoài hoặc nhà cung cấp nước ngoài thông qua chỉ định thầu và các hình thức lựa chọn nhà thầu khác, hoặc đưa ra các yêu cầu cụ thể “khép kín” về tiêu chuẩn kỹ thuật…

Phạm vi điều chỉnh của Hiệp định về mua sắm Chính phủ năm 2012

So với GPA 1994, GPA 2012 đã rút gọn và qui định rõ ràng hơn vấn đề minh bạch hóa trong đấu thầu mua sắm công

Thực tiễn nói trên phần nào đã làm cản trở quá trình tự do hóa thương mại ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu. Do đó, để giảm thiểu những tác động tiêu cực, hạn chế sự bóp méo thương mại, thực hiện không phân biệt đối xử cũng như đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường mua sắm Chính phủ của hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp nước ngoài, Hiệp định Mua sắm chính phủ (GPA của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời năm 1994) và Hiệp định sửa đổi năm 2012 (GPA 2012 ) đã đưa ra những quy định cụ thể về minh bạch hóa.

GPA 1994 và GPA 2012 đều đặt ra các yêu cầu về minh bạch đối với cả các bên của Hiệp định – các chính phủ và những định chế nhà nước, bao gồm các cơ quan trung ương, các cơ quan địa phương và các doanh nghiệp nhà nước tiến hành những hoạt động mua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định. 

Theo quy định của GPA 1994, đối với các chính phủ thành viên, họ phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các bên liên quan và tuân thủ cơ chế báo cáo tới Ủy ban Mua sắm Chính phủ của WTO. Các bên cần công bố trong các ấn phẩm phù hợp tại Phụ lục IV những luật lệ, quy định, phán quyết của tòa án, các quy định hành chính được áp dụng chung và thủ tục (bao gồm cả các điều khoản của hợp đồng mẫu) về những hoạt động mua sắm của chính phủ thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này (Điều XIX của GPA 1994). Các thông tin cần được công bố theo cách thức mà các bên khác và các nhà cung cấp đều có thể tiếp cận được. Ngoài ra, các bên là thành viên của GPA 1994 còn có nghĩa vụ phải thông báo cho Ủy ban Mua sắm chính phủ của WTO những thông tin liên quan đến hệ thống chính sách và pháp luật của quốc gia, các cam kết song phương và đa phương điều chỉnh trong lĩnh vực này và các báo cáo hàng năm về việc thi hành Hiệp định.

Đối với các định chế nhà nước, họ cần tiến hành việc công bố thông tin, minh bạch trong thủ tục đấu thầu, theo đó, các thông báo mời thầu phải được gửi đi hoặc công bố theo một thủ tục minh bạch, đồng thời, phải chỉ rõ một cách trực tiếp trong chính thư mời hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng, những hợp đồng mua sắm nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định.

Tuy nhiên, cần lưu ý là GPA 1994 không yêu cầu các bên phải công bố những thông tin tối mật. Đó là những thông tin mà nếu được cung cấp thì:

(i) sẽ làm cản trở việc thi hành pháp luật hoặc;  (ii) đi ngược lại với các lợi ích chung hoặc;  (iii) làm ảnh hưởng tới các lợi ích thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp cụ thể của nhà nước hoặc tư nhân, hoặc; 

(iv) có thể ảnh hưởng tới cạnh tranh công bằng giữa các nhà cung cấp. 

So với GPA 1994, GPA 2012 đã rút gọn và quy định rõ ràng hơn vấn đề minh bạch hóa trong đấu thầu mua sắm chính phủ với chỉ 2 điều: Điều XVI và Điều XVII. Đối với nghĩa vụ công khai thông tin về mua sắm chính phủ, GPA 2012 đã gộp nghĩa vụ của các định chế nhà nước tiến hành hoạt động mua sắm và nghĩa vụ của các bên để quy định trong cùng một Điều, trong đó chỉ rõ: (1) Các đơn vị mua sắm có ba nghĩa vụ bao gồm: (i) cung cấp thông tin cho các nhà cung cấp; (ii) công bố thông tin về các hợp đồng đã trao; (iii) lưu trữ văn bản, các báo cáo và tài liệu điện tử trong vòng ít nhất là 3 năm kể từ ngày trao hợp đồng cho nhà thầu thắng thầu; (2) Các thành viên chỉ có một nghĩa vụ, đó là thu thập và báo cáo số liệu cho Ủy ban Mua sắm chính phủ của WTO (Điều XVI). 

Về vấn đề công bố thông tin, GPA 2012 quy định rõ những thông tin nào cần và không cần phải công bố (Điều XVII). Các thành viên, bao gồm cả các đơn vị mua sắm sẽ không phải công bố bất kỳ thông tin nào liên quan tới một nhà cung cấp cụ thể nếu điều đó có thể làm ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp. Đối với các thông tin bảo mật, so với các trường hợp được nêu trong GPA 1994, GPA 2012 chỉ quy định chi tiết hơn và bổ sung thêm một lý do liên quan tới việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp.

Mua sắm Chính phủ và minh bạch hóa luôn là những vấn đề được quan tâm trong khuôn khổ các liên kết kinh tế quốc tế, trên các diễn đàn và tại các cuộc đàm phán thương mại, dù ở cấp độ khu vực hay toàn cầu. GPA 1994 hay GPA 2012 cũng như hàng loạt các hiệp định thương mại tự do được cho là mang tính “tiên tiến” và “hiện đại”, bao gồm cả Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), có lẽ cũng chỉ dừng lại ở việc thúc đẩy chứ chưa thể giải quyết được triệt để những xung đột về lợi ích và thực tiễn mang tính phân biệt đối xử và thiếu minh bạch trong lĩnh vực mua sắm của chính phủ. Cho đến nay, cả GPA 1994 và GPA 2012 vẫn chỉ là hiệp định nhiều bên, không mang tính bắt buộc đối với các thành viên WTO. Và như vậy, gần 120 thành viên còn lại của WTO chưa phải là các bên ký kết GPA và cả những quốc gia và vùng lãnh thổ chưa gia nhập WTO vẫn đứng ngoài các quy tắc mang tính ràng buộc về mua sắm chính phủ, bởi họ luôn muốn giữ một phần lớn “sân nhà” cho các nhà cung cấp nội địa và cho quyền tự quyết của chính họ.

(*) Bài đã đăng trên baodauthau.vn 

TS. Nguyễn Thị Thu Hiền, Trọng tài viên VTA

I.Lịch sử ra đời và phát triển các Hiệp định mua sắm Chính phủcủa WTO.Trong thương mại quốc tế, khi tiến hành những hoạt động mua sắm, các chính phủthường muốn dành “sự ưu tiên” cho các nhà cung cấp trong nước thông qua việc sửdụng một số biện pháp như quy định các quy tắc mua sắm ưu tiên; cấm mua các sảnphẩm, dịch vụ nước ngoài hoặc từ nhà cung cấp nước ngoài; hạn chế cơ hội tiếp cận đốivới hoạt động mua sắm Chính phủ của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nước ngoài hoặc nhàcung cấp nước ngoài thông qua chỉ định thầu và các hình thức lựa chọn nhà thầu khác,hoặc đưa ra các yêu cầu cụ thể “khép kín” về tiêu chuẩn kỹ thuật… Thực tiễn nói trênphần nào đã làm cản trở quá trình tự do hóa thương mại ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu.Do đó, để giảm thiểu những tác động tiêu cực, hạn chế sự bóp méo thương mại, thựchiện không phân biệt đối xử cũng như đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường mua sắmChính phủ của hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp nước ngoài, Hiệp định Mua sắm chínhphủ (GPA) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời năm 1994 và Hiệp định sửađổi năm 2012 (GPA 2012 ) đã khắc phục được những tiêu cực trên của thị trường muasắm công đang ngày càng mở rộng. Là một Hiệp định mang tính quốc tế, GPA cũng cónhững thăng trầm lịch sử để đạt được thành tựu như hiện nay.Năm 1947 các vấn đề về mua sắm Chính phủ bước đầu được đề cập đến trongkhuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT 1947). Theo đó, muasắm Chính phủ chỉ được coi là một trong những ngoại lệ của nguyên tắc đối xử quốc gia(các quốc gia thành viên được phép có sự phận biệt đối xử phân biệt, dành ưu đãi chocác nhà sản xuất trong nước trong lĩnh vực mua sắm Chính phủ). Chỉ với quy định nàymức độ và phạm vi mua sắm Chính phủ được đề cập còn rất hạn chế.Tại vòng đàm phán Kennerdy (1964-1967) lần đầu tiên thủ tục về mua sắm Chínhphủ được thừa nhận như một loại hàng rào phi thuế quan quan trọng. Tại vòng đàmphán Tokyo (1973-1979) vấn đề mua sắm chính phủ được đưa ra đàm phán và các thànhviên của GATT 1947 đã đạt được kết quả tích cực đầu tiên, đó là sự ra đời của Hiệpđịnh về mua sắm Chính phủ được kí kết năm 1979 (GPA 1979) và có hiệu lực từ ngày1/1/1981. Hiệp định này chỉ điều chỉnh hoạt động mua sắm của các thực thể chính quyềntrung ương và chỉ đối với mua sắm hàng hóa. Năm 1987, GPA 1979 được bổ sung cácĐiều I, II, IV, V và VI, bản sửa đổi bổ sung này có hiệu lực từ năm 1988. Hiệp định nàyđã tạo nên sự mở cửa cho cạnh tranh nước ngoài đối với các hợp đồng mua sắm chínhphủ.Sau đó, đến vòng đàm phán Uruguay, các cuộc thương lượng nhằm mở rộng phạmvi áp dụng và bổ sung một số quy định của Hiệp định 1988 đã được tổ chức, các cuộcđàm phán được tiến hành song song với vòng đàm phán Uruguay nhưng không phải mộtphần chính của vòng đàm phán đó. Vào năm 1994 Hiệp định về mua sắm Chính phủ đãchính thực ra đời sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay và đến ngày 1/1/1996 GPA1996 chính thức có hiệu lực. GPA 1994 điều chính hoạt động mua sắm hàng hóa đượctiến hành bởi các thực thể chính quyền trung ương, địa phương, các doanh nghiệp nhànước khác và mở rộng mua sắm dịch vụ nói chung và dịch vụ xây dựng nói chung.GPA 1994 được ghi nhận tại phụ lục 4 của Hiệp định thành lập WTO và là mộttrong 4 hiệp định nhiều bên của WTO. Nghĩa là, GPA 1994 không bắt buộc tất cả cácthành viên của WTO phải tham gia.Mặc dù GPA 1994 đã ra đời nhưng các thành viên của GPA 1994 vẫn tiếp tục tiếnhành các cuộc đàm phán để hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng của Hiệp định. TheoĐiều XXIV:7(b): “Không muộc hơn cuối năm thứ ba kể từ ngày có hiệu lực của Hiệpđịnh này và định kì sau đó, các bên sẽ tiến hành đàm phán bổ sung thêm, nhằm pháttriển Hiệp định này và đạt được khả năng mở rộng nhất phạm vi áp dụng của Hiệp địnhgiữa tất cả các bên trên cơ sở có đi có lại, có quan tâm tới các quy định của Điều V liênquan đến các nước đang phát triển”. Mục đích của các cuộc đàm phán này: thứ nhất, đểhoàn thiện và cập nhật hơn quy định trong hoàn cảnh hiện nay; thứ hai, để mở rộngphạm vi áp dụng của Hiệp định; thứ ba, tiếp tục loại bỏ các biện pháp phân biệt đối xử.Ngày 30/3/2012 Nghị định thư sửa đổi GPA 1994 (gọi tắt là GPA2012) được kíkết và ghi nhận trong văn bản quyết định về kết quả các cuộc đàm phán theo ĐiềuXXIV:7 GPA (GPA/113).GPA 2012 sẽ chỉ có hiệu lực đối với các thành viên GPA 1994 đã gửi văn kiệnchấp nhận Nghị đinh thư này, kể từ ngày thứ 30, sau khi được chấp nhận bởi 2/3 sốthành viên GPA 1994. Điều kiện về số lượng thành viên đã được đáp ứng khi Israel đãchấp nhận hiệu lực của GPA 2012 ngày 7/3/2014. Và ngày 6/4/2014 GPA 2012 có hiệulực.II. Vai trò của các GPA trong việc điều chỉnh các hoạt động đấuthầu quốc tế của các Chính phủ thành viên.GPA là hiệp định áp dụng đối với toàn bộ các quy định liên quan tới mua sắmcông (mua sắm chính phủ) của các nước thành viên tham gia Hiệp định. Nội dung chínhcủa Hiệp định chủ yếu tập trung vào việc xác định rõ nguyên tắc không phân biệt đối xửvà công khai minh bạch, trong đó chú ý vào lợi ích tổng thể của việc tự do hóa mua sắmchính phủ. Hiệp định GPA công nhận thiết lập một khuôn khổ đa phương tiện hiệu quảvề quyền và nghĩa vụ liên quan tới luật lệ quy định, thủ tục và việc thực thể các hoạtđộng mua sắm chính phủ nhằm tiến tới việc mở rộng tự do hóa, mở rộng thương mại thếgiới và tăng cường khuôn khổ quốc tế cho các hoạt động thương mại quốc tế.Vì những lý do như: bảo vệ an ninh quốc phòng, khuyến khích các doanh nghiệptrong nước các Chính phủ thường có xu hướng mua sắm hàng hóa, dịch vụ của cácdoanh nghiệp trong nước. Trên thực tế, việc phân biệt đối với hàng hóa, dịch vụ nướcngoài trong mua săm chính phủ thể hiện dưới những hình thức:Cấm doanh nghiệp nước ngoài tham gia đấu thầu các hợp đồng trong mua sắmchính phủ; Ưu đãi các doanhg nghiệp sử dụng nhiều hành hóa, dịch vụ trong nước khithực hiện hợp đồng mua sắm chính phủ; Đặt điều kiện quy định về thể nhân phân biệtđối xử để ngăn cản doanh nghiệp nước ngoài tham gia dự thầu...Tuy nhiên, khi GPA ra đời đã khắc phục những vấn đề trên. GPA áp dụng đối vớitoàn bộ các quy định liên quan tới mua săm công (mua sắm chính phủ) của các nướcthành viên.Khi tham gia các hoạt động mua sắm chính phủ, các nhà thầu nước ngoài thườngmong được tạo cơ hội và đối xử bình đẳng như các nhà thầu trong nước cũng như cácnhà thầu nước ngoài khác. Sự đối xử công bằng, bình đẳng đó sẽ được đảm bảo nếu cácquốc gia tuân thủ một nguyên tắc nền tảng trong thương mại quốc tế – nguyên tắc khôngphân biệt đối xử (Non-Discrimination). Khi thực hiện nghĩa vụ không phân biệt đối xử,các quốc gia phải dành cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp của các nướckhác, trong trường hợp giữa hai nước có cam kết thương mại, sự đối xử không kémthuận lợi hơn sự đối xử mà nước này dành cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và nhà cungcấp trong nước (đối xử quốc gia – National Treatment) cũng như không được phân biệtđối xử giữa các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp đến từ các nước khác vớinhau (đối xử tối huệ quốc – Most Favoured Nation Treatment)Nguyên tắc không phân biệt đối xử được quy định tại Điều 3 của GPA 1994 vàtiếp tục được ghi nhận, không có sửa đổi tại Điều 4 của GPA 2012. Theo đó, các thànhviên của GPA 1994 hay GPA 2012 đều phải tuân thủ cả hai nghĩa vụ đối xử tối huệ quốcvà đối xử quốc gia đối với các hoạt động mua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh của từngGPA. Không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo sự đối xử công bằng giữa các nhà cung cấpnước ngoài với nhau và giữa các nhà cung cấp nước ngoài với các nhà cung cấp nội địa,GPA còn yêu cầu các thành viên phải đảm bảo không phân biệt đối xử giữa nhà cungcấp nội địa này với nhà cung cấp nội địa khác dựa trên việc quy định mức độ góp vốnhoặc tỷ lệ vốn nước ngoài, hoặc không được phân biệt đối xử nhằm chống lại một nhàcung cấp dựa trên việc quy định về xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ sẽ được cung cấp.Để giảm thiểu những tác động tiêu cực, hạn chế sự bóp méo thương mại, thựchiện không phân biệt đối xử cũng như đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường mua sắmChính phủ của hàng hóa, dịch vụ và nhà cung cấp nước ngoài, Hiệp định Mua sắm chínhphủ (GPA của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời năm 1994) và Hiệp định sửađổi năm 2012 (GPA 2012 ) đã đưa ra những quy định cụ thể về minh bạch hóa.GPA 1994 và GPA 2012 đều đặt ra các yêu cầu về minh bạch đối với cả các bêncủa Hiệp định – các chính phủ và những định chế nhà nước, bao gồm các cơ quan trungương, các cơ quan địa phương và các doanh nghiệp nhà nước tiến hành những hoạt độngmua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định.Theo quy định của GPA 1994, đối với các chính phủ thành viên, họ phải thực hiệnnghĩa vụ cung cấp thông tin cho các bên liên quan và tuân thủ cơ chế báo cáo tới Ủy banMua sắm Chính phủ của WTO. Các bên cần công bố trong các ấn phẩm phù hợp tại Phụlục IV những luật lệ, quy định, phán quyết của tòa án, các quy định hành chính được ápdụng chung và thủ tục (bao gồm cả các điều khoản của hợp đồng mẫu) về những hoạtđộng mua sắm của chính phủ thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này (Điều XIXcủa GPA 1994). Các thông tin cần được công bố theo cách thức mà các bên khác và cácnhà cung cấp đều có thể tiếp cận được. Ngoài ra, các bên là thành viên của GPA 1994còn có nghĩa vụ phải thông báo cho Ủy ban Mua sắm chính phủ của WTO những thôngtin liên quan đến hệ thống chính sách và pháp luật của quốc gia, các cam kết songphương và đa phương điều chỉnh trong lĩnh vực này và các báo cáo hàng năm về việc thihành Hiệp định.Đối với các định chế nhà nước, họ cần tiến hành việc công bố thông tin, minhbạch trong thủ tục đấu thầu, theo đó, các thông báo mời thầu phải được gửi đi hoặc côngbố theo một thủ tục minh bạch, đồng thời, phải chỉ rõ một cách trực tiếp trong chính thưmời hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng, những hợp đồng mua sắm nào thuộcphạm vi điều chỉnh của Hiệp định.GPA 2012 đã rút gọn và quy định rõ ràng hơn vấn đề minh bạch hóa trong đấuthầu mua sắm chính phủ với chỉ 2 điều: Điều XVI và Điều XVII. Đối với nghĩa vụ côngkhai thông tin về mua sắm chính phủ, GPA 2012 đã gộp nghĩa vụ của các định chế nhànước tiến hành hoạt động mua sắm và nghĩa vụ của các bên để quy định trong cùng mộtĐiều, trong đó chỉ rõ: (1) Các đơn vị mua sắm có ba nghĩa vụ bao gồm: (i) cung cấpthông tin cho các nhà cung cấp; (ii) công bố thông tin về các hợp đồng đã trao; (iii) lưutrữ văn bản, các báo cáo và tài liệu điện tử trong vòng ít nhất là 3 năm kể từ ngày traohợp đồng cho nhà thầu thắng thầu; (2) Các thành viên chỉ có một nghĩa vụ, đó là thuthập và báo cáo số liệu cho Ủy ban Mua sắm chính phủ của WTO (Điều XVI).Về vấn đề công bố thông tin, GPA 2012 quy định rõ những thông tin nào cần vàkhông cần phải công bố (Điều XVII). Các thành viên, bao gồm cả các đơn vị mua sắmsẽ không phải công bố bất kỳ thông tin nào liên quan tới một nhà cung cấp cụ thể nếuđiều đó có thể làm ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp. Đốivới các thông tin bảo mật, so với các trường hợp được nêu trong GPA 1994, GPA 2012chỉ quy định chi tiết hơn và bổ sung thêm một lý do liên quan tới việc bảo vệ quyền sởhữu trí tuệ của doanh nghiệp.Mua sắm Chính phủ và minh bạch hóa luôn là những vấn đề được quan tâm trongkhuôn khổ các liên kết kinh tế quốc tế, trên các diễn đàn và tại các cuộc đàm phánthương mại, dù ở cấp độ khu vực hay toàn cầu. GPA 1994 hay GPA 2012 cũng như hàngloạt các hiệp định thương mại tự do được cho là mang tính “tiên tiến” và “hiện đại”, baogồm cả Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), có lẽ cũng chỉ dừng lại ở việcthúc đẩy chứ chưa thể giải quyết được triệt để những xung đột về lợi ích và thực tiễnmang tính phân biệt đối xử và thiếu minh bạch trong lĩnh vực mua sắm của chính phủ.Cho đến nay, cả GPA 1994 và GPA 2012 vẫn chỉ là hiệp định nhiều bên, không mangtính bắt buộc đối với các thành viên WTO. Và như vậy, gần 120 thành viên còn lại củaWTO chưa phải là các bên ký kết GPA và cả những quốc gia và vùng lãnh thổ chưa gianhập WTO vẫn đứng ngoài các quy tắc mang tính ràng buộc về mua sắm chính phủ, bởihọ luôn muốn giữ một phần lớn “sân nhà” cho các nhà cung cấp nội địa và cho quyền tựquyết của chính họ.Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để điều chỉnh, bổ sungcác văn bản quy phạm phát luật về đấu thầu, mua sắm công để phù hợp với quy định củaGPA trong WTO. Việc tham gia GPA với tư cách quan sát viên được xem là bước đầutiên tiến tới trở thành thành viên chính thức của Hiệp định.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1.2.Hiệp định mua sắm Chính phủ 1994 (GPA1994)3. Hiệp định mua sắm Chính phủ 2012 (GPA 2012)4. Một số trang web:http://muasamcong.vn/danh-muc-tin/detail/khong-phan-biet-doi-xu-nguyen-taccua-wto-de-bao-dam-cong-bang-trong-mua-sam-conghttp://muasamcong.vn/danh-muc-tin/detail/su-minh-bach-trong-mua-sam-chinhphu-theo-quy-dinh-cua-wtohttp://www.vietnamplus.vn/vn-la-quan-sat-vien-hiep-dinh-mua-sam-chinhphu/176057.vnp