Tài liệu "Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện" có mã là 33353, file định dạng docx, có 17 trang, dung lượng file 19 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Khoa học xã hội > Triết học. Tài liệu thuộc loại Đồng
Nội dung Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện
Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 17 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.
Xem preview Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện
Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.
Tóm tắt nội dung tài liệu
MỤC LỤC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Triết học của C. Mác và Ăng ghen là sự kế thừa những thành tựu vĩ đại
của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX. Tuy nhiên, triết học của các ông khác một cách căn bản với các quan
điểm, các hệ thống và các học thuyết trước đó. Sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy
vật biện chứng [bao gồm cả chủ nghĩa duy vật lịch sử] của Mác và Ăng ghen
thực sự là một cuộc cách mạng trong triết học.
C.Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 tại Đức. Cha của ông là một luật sư có
quan điểm tiến bộ. Ông ủng hộ tư tưởng dân chủ tư sản và khai sáng Pháp.
Năm 1835, Mác học luật ở đại học Bon, một năm sau chuyển sang học lịch sử
và triết học ở Béclin. Mác bảo vệ luận án tiến sĩ triết học vào năm 24 tuổi.
Tháng 6 năm 1843, Mác kết hôn với Gienni Phôn, người bạn gái từ hồi còn nhỏ
của ông. Mac mất ngày 14 tháng 3 năm 1883 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh.
C.Mác [1818 1883] F. Ăngghen [1820 1895]
F. Ăng ghen sinh ngày 28/11/1820, tại Bácmen, tỉnh Rênani, nước Đức. Cụ
thân sinh ra ông là chủ một xưởng dệt. Ông bỏ dở việc học ở bậc trung học về
2
làm việc cho cha, và sau đó làm thư ký cho một hãng buôn ở Bơrêmô. Năm
1841, Ăngghen rời Bơrêmô đến Béclin tham gia vào một trung đoàn pháo binh.
Cũng trong thời kỳ này, ông đã theo học triết học ở trường đại học và giao lưu
với phái Hêghen trẻ. Từ tháng 3 năm 1842, ông đã bắt đầu xuất bản những tác
phẩm đầu tiên của mình.
Cuối tháng 8 năm 1844, ông gặp Mác tại Pari, thủ đô của nước Pháp. Sự gặp
gỡ này đã đánh dấu một giai đoạn phát triển đặc biệt của triết học Mác nói
riêng và chủ nghĩa Mác nói chung. Từ đây, C.Mác và Ăngghen đã có bước
chuyển hoàn toàn từ thế giới quan duy tâm biện chứng sang thế giới quan duy
vật biện chứng. Đó là quá trình phức tạp, vừa cải biến phép biện chứng duy
tâm trong triết học cổ điển Đức, vừa vận dụng phép biện chứng duy vật vào
việc nhận thức lịch sử xã hội để từng bước C.Mác và Ăng ghen hoàn chỉnh hệ
thống triết học của mình về thế giới quan và phương pháp luận. Ăng ghen
mất năm 1895, sau khi đã hoàn tất những phần việc mà Mác còn để lại.
Từ năm 1844 đến năm 1895. C.Mác và F. Ăng ghen đã bổ sung và phát triển
toàn diện những vấn đề của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
triết học nhân loại. Toàn bộ hệ thống triết học do Mác và Ănghen thực hiện đã
chứng minh một cách bản chất và sinh động giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao
của học thuyết Mác.
2. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA TRIẾT
HỌC MÁC
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở châu Âu, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo nên mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối lập,
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. “… giai cấp tư sản không những đã rèn
những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy
chống lại nó, đó là những người công nhân hiện đại, những người vô sản”.
3
Cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến một yêu cầu mới đòi hỏi phải có
lý luận khoa học dẫn đường lý luận triết học Mác.
1.2. Tiền đề lý luận
Triết học Mác ra đời trên cơ sở là tiền đề lý luận trực tiếp là triết học cổ
điển Đức mà tiêu biểu là triết học Cantơ, Heeghen, Phoiơbắc.
Triết học duy tâm tiên nghiệm của Cantơ đã nêu ra những quan niệm khởi
đầu về phép biện chứng, làm cơ sở cho tư tưởng biện chứng duy tâm trong lịch
sử triết học cổ điển Đức. Triết học Hêghen là đỉnh cao của nền triết học cổ
điển Đức, trình bày một cách có hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật của
phép biện chứng duy tâm xuất phát từ “Ý niệm tuyệt đối”. Triết học duy vật
nhân bản của Phoiơbắc đã nêu ra quan niệm về con người và lịch sử trên cơ sở
giới tự nhiên và đời sống xã hội.
Kế thừa trên tinh thần phê phán những hạt nhân hợp lý của triết học cổ điển
Đức, C.Mác xây dựng hệ thống triết học duy vật biện chứng.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt được những thành tựu nổi bật về
khoa học tự nhiên. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng được tìm ra
bởi R.Maye và P.P. Giulơ; học thuyết tế bào được khám phá bởi Svan và
Slâyđen của Đức; học thuyết tiến hóa của Đácuyn. Những phát minh vạch thời
đại trong khoa học tự nhiên cùng với những thành tựu khoa học khác trong vật
lý, hóa học, sinh học là cơ sở để C. Mác xây dựng và phát triển tư tưởng biện
chứng trong học thuyết triết học.
3. CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG
3.1. Khái niệm phép biện chứng
Biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa phản
ánh sự tồn tại, vận động và phát triển theo qui luật của các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
4
Biện chứng bao gồm: biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới
vật chất và biện chứng chủ quan là phản ánh biện chứng trong hoạt động tinh
thần của con người.
Phép biện chứng, là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế
giới thành hệ thống các nguyên lý, qui luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống
các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Theo Ăngghen, phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của
tư duy.
Kết cấu phép biện chứng bao gồm: thế giới quan [hệ thống những quan
điểm duy vật hoặc duy tâm về thế giới] và phương pháp luận [nguyên tắc
phương pháp luận về nhận thức và hoạt động thực tiễn]. Chính vì vậy khi
nghiên cứu các hình thức cơ bản của phép biện chứng chúng ta sẽ thấy được
sự khác nhau căn bản giữa các hình thức lịch sử của phép biện chứng.
3.2. Các phép biện chứng trước Mác
Người đầu tiên xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật là
Hêraclit nhưng phép biện chứng của ông chưa được trình bày dưới dạng một
hệ thống các luận điểm mà được trình bày dưới dạng các câu danh ngôn
mang tính thi ca, triết lý. Heghen cũng đưa ra các nguyên lý, các cặp phạm trù
và quy luật cơ bản của phép biện chứng nhưng trong ý niệm, tư duy biện
chứng mà không thấy nó trong thế giới vật chất nên phép biện chứng của ông
được Mác gọi là phép biện chứng lộn ngược.
3.3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học,
chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất
phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong đó,
chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật, là hạt nhận lý luận của thế giới quan khoa học.
5
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ăngghen sáng lập. Với sự kế
thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để những
thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ
khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa chủ nghĩa duy vật
chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt
tới trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây
dựng trên cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng gồm các
nội dung cơ bản: Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật [nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển]; ba quy luật cơ bản của
biện chứng duy vật [quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất
và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định]; các cặp phạm trù cơ bản của
phép biện chứng duy vật [cái chung cái riêng, nguyên nhân kết quả, tất nhiên
ngẫu nhiên, nội dung hình thức, bản chất hiện tượng, khả năng hiện
thực]; lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
3.4. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã
hội; là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch
sử nhân loại, nhờ đó hoàn thiện và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.
Nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử là các học thuyết hình thái kinh tế
xã hội, biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội và tiến bộ xã hội.
6
4. THỰC CHẤT CUỘC CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC DO
MÁC VÀ ĂNG GHEN THỰC HIỆN
Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện
là ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết học
trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa
triết học và các khoa học cụ thể.
Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được
thừa nhận là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng
này đã đưa triết học nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang
thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Với sự ra
đời của triết học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một
thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này được thể hiện ở
những điểm cơ bản sau:
4.1. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
C. Mác và Ăngghen đã khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên
sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương
pháp biện chứng đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ
nghĩa duy vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy
Lạp cổ đại, có thể nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật
và phương pháp biện chứng ở một số nhà triết học duy vật. Sự thống nhất
này được thể hiện rõ nhất trong triết học của Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống
nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học của
Hêraclít còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp
biện chứng của Hêraclít đều còn ở trình độ thô sơ, chất phác, đúng như
7
Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về
thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và
lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại
và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không
ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong.
Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển
về chất so với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa
duy vật thời kỳ này, về cơ bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là
chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời phương pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ
điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập phương pháp biện chứng với phương
pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về chất trong phương pháp
nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của Hêghen lại dựa trên nền
thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện chứng của Hêghen
không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ
nghĩa duy tâm. Cho nên, phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành
khoa học mặc dù nó có đóng góp nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của
L.Phoiơbắc. Nhưng chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ
nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ
với phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng
phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên
nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp
biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất. Do vậy,
sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng
trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy
vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây
chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
8
4.2. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc
cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát
triển của xã hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy
vật không triệt để. Nghĩa là nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên,
nhưng còn duy tâm trong giải thích xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ
nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ được chủ nghĩa duy tâm một
cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của nó là lĩnh vực xã
hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải thích một cách
duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử,
tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để
nhất. Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin đã khẳng định: “chủ nghĩa duy vật
lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận
khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy
tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính
trị”. Như vậy, với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ
nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ mới
trong nghiên cứu xã hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận
động và phát triển của xã hội, của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh
này của C.Mác như phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống
như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra
quy luật phát triển của lịch sử loài người”. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình
thức tổ chức xã hội này, nảy sinh ra và phát triển lên như thế nào một hình
thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã
nảy sinh ra như thế nào từ chế độ phong kiến”. Về bản chất, chủ nghĩa duy
vật lịch sử của C.Mác quan niệm duy vật về lịch sử cũng là chủ nghĩa duy
vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh
9
vực hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho
C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được
sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế xã hội tư bản
chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại
nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
4.3. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa lý luận với hoạt động thực
tiễn của con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ
nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu
vào giải thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã
từng nhận định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Cũng đã có một số nhà triết học
muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng con đường không tưởng dựa vào các
lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang dân trí, bằng con đường
giáo dục đạo đức... Có thể nói, không một nhà triết học nào trước C.Mác hiểu
được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới. Các nhà triết học
khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội phong kiến lạc hậu, lỗi thời
bằng các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu được rằng, phải thông
qua hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng mới thực hiện được điều
này. C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy
vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật,
hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm
giác của con người, là thực tiễn”.
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan
trọng hơn là cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã
10
chỉ ra rằng, chỉ có thể cải tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói
riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn về
chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, không có sự đối
lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là hoạt
động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản
được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai
cấp vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với hoạt động
thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Do vậy, triết
học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô
sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.
4.4. Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng.
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. Tính
khoa học sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì
thì tính cách mạng càng cao, càng triệt để. Triết học Mác biểu hiện tính cách
mạng ở trong bản chất khoa học của học thuyết, trong mục đích cải tạo thế
giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Triết học đã chứng
minh bằng sức mạnh của phương pháp biện chứng, sự thay thế chủ nghĩa tư
bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Chỉ có chủ nghĩa
duy vật của Mác là đã chỉ rõ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát
khỏi chế độ nô lệ về tinh thần. Trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống
lay lắt từ trước tới nay. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản,
còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học Mác trong cuộc đấu tranh
vì xã hội tương lai.
Tính cách mạng trong triết học Mác biểu hiện ở bản chất khoa học và cách
mạng của phép biện chứng. C.Mác cho rằng: “Dưới dạng hợp lý của nó, phép
11
biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn
tư tưởng giáo điều của chúng mà thôi” vì trong quan niệm tích cực về cái
hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về
sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi
hình thái đã được hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận
động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không
khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán
và cách mạng.
4.5. Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử,C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học
cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau
các khoa học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ
đại, triết học thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo,
đạo đức... Ở Hy Lạp cổ đại, triết học được coi là “khoa học của các khoa
học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học được coi là “bộ môn” của thần học,
có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Ở thời kỳ Cận đại, triết
học được coi là mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới quan của con
người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học được coi là tổng thể tri
thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn... Quan hệ giữa triết học
Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn
nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện,
thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học
Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên. Chính những
thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những
hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới;
đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện
12
chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế
giới quan, phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của
các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò thế giới quan, phương pháp luận
của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học tự nhiên ở thế kỷ XX đã nhận
xét: “Các khái quát hóa triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Tuy
nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh
hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một
trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có. Như vậy, sự ra đời của
triết học Mác đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn vô cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm
cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách
mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm
vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của
nhân loại tiến bộ.
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN
Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay,
nhưng triết học Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn
trong thời đại ngày nay. Có thể nói, cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác
thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn
trong việc phát triển triết học Mác Lênin ở thời đại ngày nay. Điều này thể
hiện ở chỗ:
Một là, với tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta phải thấy
rằng, triết học Mác Lênin là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống
khép kín; nó đòi hỏi luôn phải được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với
phương pháp biện chứng duy vật, không có gì là bất biến. Bản thân C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả
xâm phạm”, là khép kín, là chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trái lại, các nhà kinh
13
điển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn đòi hỏi những người cộng sản sau này
phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của triết học Mác
Lênin sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và phải biết bổ sung, hoàn
thiện, phát triển chúng. Trên tinh thần ấy mà lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm học tập
chủ nghĩa Mác Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác Lênin; học
tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin để áp
dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những
vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”; “học tập cái tinh thần
xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác Lênin để áp dụng một cách sáng
tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”. Đồng thời, Người
cũng yêu cầu lý luận phải thường xuyên được “bổ sung bằng những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong
trào công nhân những năm 30 40 của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác
cũng gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân. Chính
C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục sự đối lập giữa triết
học với hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác Lênin phải theo hướng gắn bó với thực tiễn, bảo
đảm sự thống nhất giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động,
biến đổi và phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được
bổ sung, hoàn thiện và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đó. Triết học Mác
Lênin cũng không nằm ngoài quy luật này. V.I. Lênin và Hồ Chí Minh là
những tấm gương sáng về việc bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học
Mác Lênin trong những điều kiện mới của thực tiễn. Sự thống nhất giữa
triết học Mác Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp cho
những vấn đề của ngày hôm nay từ chính thực tiễn ngày hôm nay chứ không
thể chỉ tìm trong lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình bổ sung, hoàn thiện và phát
14
triển triết học Mác Lênin cần tránh hai thái cực sai lầm: hoặc là không thấy
được những đổi thay của thực tiễn, bảo thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện
và phát triển những nguyên lý của triết học Mác Lênin; hoặc là quá nhấn
mạnh, tuyệt đối hóa sự đổi thay của thực tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học
Mác Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với các khoa
học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ, triết học Mác Lênin không thể không được bổ sung, hoàn thiện,
phát triển lý luận của mình. Sự hợp tác giữa những người nghiên cứu triết
học Mác Lênin với các nhà khoa học tự nhiên trong điều kiện hiện nay là
hết sức cần thiết. Nếu triết học Mác Lênin không được bổ sung, hoàn thiện
và phát triển trên cơ sở khái quát những thành tựu mới của các khoa học cụ
thể thì sẽ trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không thể đáp ứng được vai
trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể,
cũng như cho quần chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương
nhiên, nếu không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phương pháp biện chứng duy vật thì trước những phát minh mới
của khoa học, người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Ph.Ăngghen đã từng phê phán một số
nhà khoa học tự nhiên khi cho rằng, họ không cần tới tư duy lý luận. Theo
Ph.Ăngghen, những nhà khoa học tự nhiên ấy, trên thực tế, lệ thuộc rất nhiều
vào tư duy lý luận, nhưng thường lại là tư duy sai lầm được rút ra từ những
học thuyết triết học “tồi tệ nhất”. Do vậy, Ph.Ăngghen cho rằng, “dù các nhà
khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ
ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ
muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu
biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”. Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là chỉ cần nắm được triết học Mác Lênin thì con người sẽ
giải quyết được mọi vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra. Triết học Mác
15
Lênin không phải bảo bối chứa sẵn mọi cách giải quyết những vấn đề do
cuộc sống cũng như nhận thức đặt ra. Để tìm được lời giải đáp cho những
vấn đề nảy sinh, bên cạnh những tri thức triết học Mác Lênin, còn phải cần
đến những tri thức của các khoa học cụ thể, kinh nghiệm sống và hoạt động
thực tiễn của mỗi người. Thiếu những điều đó, chúng ta không thể hiểu và
vận dụng đúng những nguyên lý của triết học Mác Lênin. Do vậy, trong
việc bổ sung, hoàn thiện và phát triển triết học Mác Lênin, cần phải chống
cả hai thái cực sai lầm: hoặc coi thường triết học Mác Lênin, tuyệt đối hóa
các khoa học cụ thể; hoặc chỉ thấy có triết học Mác Lênin, không thấy vai
trò của các khoa học cụ thể. Đồng thời, cũng cần phải nhận thức đúng rằng,
bản thân triết học Mác Lênin cũng cần được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện
và phát triển.
6. KẾT LUẬN
Tóm lại, thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác
thực hiện là ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đưa triết học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối
liên minh giữa triết học và các khoa học cụ thể. C ó thể khẳng định lại rằng,
hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách mạng trong triết học
được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên tính
thời sự và tính thực tiễn cho việc phát triển triết học Mác Lênin trong thời
đại hiện nay.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994;
2. Lịch sử triết học; GS.TS Nguyễn Hữu Vui, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2007;
3. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, 2009;
4. Giáo trình triết học, 2015;
5. Giáo trình triết học, 2007;
6. Tạp chí triết học, số 7, 2008.
17
Page 2
YOMEDIA
Triết học của C. Mác và Ăng ghen là sự kế thừa những thành tựu vĩ đại của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, triết học của các ông khác một cách căn bản với các quan điểm, các hệ thống và các học thuyết trước đó. Sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng [bao gồm cả chủ nghĩa duy vật lịch sử] của Mác và Ăng ghen thực sự là một cuộc cách mạng trong triết học.
14-04-2017 842 94
Download
Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.