Phong trào cần vương nổ ra vào năm nào

Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng trước nạn xâm lược của thực dân Pháp.

Ý nghĩa và khái quát phong trào

Cần vương mang nghĩa "giúp vua". Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương thường được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược.

Phong trào thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ 1885 cho đến 1895.

Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương

Sau khi cuộc tấn công tại kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết - một đại thần thuộc phe chủ chiến - đưa vua Hàm Nghi ra ngoài, phát hịch Cần Vương chống Pháp. Người Pháp dựng vua Đồng Khánh lên ngôi tại Huế. Ngoài Khởi nghĩa Cần Vương của vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn, các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi gồm có:

Nghĩa hội Quảng Nam của Nguyễn Duy Hiệu

Khởi nghĩa Hương Khê [1885-1895] của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê, Hà Tĩnh.

Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An

Khởi nghĩa Ba Đình [1886-1887] của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn, Thanh Hóa.

Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định.

Khởi nghĩa Hùng Lĩnh [1886-1892] của Tống Duy Tân ở Bá Thước và Quảng Xương, Thanh Hóa.

Khởi nghĩa Bãi Sậy [1885-1889] của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên

Phong trào kháng chiến ở Thái Bình-Nam Định của Tạ Quang Hiện và Phạm Huy Quang,

Khởi nghĩa Hưng Hóa của Nguyễn Quang Bích ở Phú Thọ và Yên Bái.

Khởi nghĩa Sông Đà [1885-1892] của Đốc Ngữ [Nguyễn Đức Ngữ] ở Hòa Bình.

Năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt và đem lưu đày ở châu Phi, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương suy yếu dần; từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt. Tới cuối năm 1895, khi khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt.

Nguyên nhân thất bại

Tác giả Nguyễn Thế Anh trong sách Kinh tế & xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn nêu các nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:

Tính chất địa phương: sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.[1]

Quan hệ với dân chúng: các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.[2].

Mâu thuẫn với tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.[3]

Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.[4]

Theo Đào Duy Anh, ngoài việc thiếu liên kết và thống nhất về tổ chức [tương tự như "tính chất địa phương" mà Nguyễn Thế Anh phản ánh], phong trào Cần Vương còn có những nguyên nhân thất bại khác[5]:

Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thô sơ không thể chống lại vũ khí hiện đại của Pháp

Lực lượng và chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng chính quy của địch

Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã.

Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ XIX do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Ý nghĩa lịch sử của phong trào cần vương là câu hỏi được nhiều độc giả quan tâm theo dõi.

Tại triều đình Huế, sau khi vua Tự Đức mất [tháng 7 năm 1883] thì sự phân hóa trong nội bộ đình thần, quan lại nhà Nguyễn càng sâu sắc. Bấy giờ tại triều đình phân hóa thành 2 phe rõ rệt – phe chủ chiến và phe chủ hòa. Trong khi phía phe chủ chiến kiên quyết không khuất phục thực dân Pháp, muốn cứu lấy sự tồn tại của đất nước, của triều đình thì phe chủ hòa sẵn sàng quy thuận và hợp tác với Pháp để bảo vệ quyền lợi giai cấp.

Vào năm 1884, thực dân Pháp chính thức xác lập ách thống trị đô hộ trên toàn Việt Nam. Dưới sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, phe chủ chiến đã sẵn sàng hành động. Đứng đầu phe chủ chiến là Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi phản đối việc 300 quân Pháp kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng thành. Đáp lại Pháp cho tăng thêm số quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn tên. Tôn Thất Thuyết huy động số quân còn lại ở các địa phương tập trung về Huế, bí mật tổ chức một cuộc phản công.

Cuộc phản công dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thất Thuyết vào rạng sáng ngày mồng 05 tháng 07 năm 1885. Cuộc phản công của phái chủ chiến thất bại, khiến vua Hàm Nghi buộc phải chạy. Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng đời kinh đô Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở [Quảng Trị]. Tại đây, ngày 13 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở Quảng Trị một thời gian, để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết lại đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn [Hương Khê, Hà Tĩnh]. Tại đây, Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20 tháng 9 năm 1885.

Nội dung cơ bản của chiếu Cần Vương

Một số nội dung cơ bản của chiếu Cần Vương là:

Thứ nhất, chiếu Cần Vương đã tố cáo tội ác xâm lược của thực dân Pháp.

Thứ hai, chiếu Cần Vương lên án tính bất hợp pháp của triều đình do Pháp dựng lên, tố cáo sự phản bội của một số quan lại bấy giờ.

Thứ ba, chiếu Cần Vương khẳng định quyết tâm kháng chiến của triều đình mà đứng đầu là vua Hàm Nghi. Thứ tư, thôi thúc, kêu gọi và khích lệ sĩ phu, văn thân cũng như nhân dân cả nước cùng tham gia cuộc chiến giúp vua khôi phục quốc gia phong kiến độc lập.

Phong trào Cần vương

Phong trào Cần vương được chia thành 2 giai đoạn:

– Giai đoạn 1: 1885 – 1888, phong trào bùng nổ khắp cả nước nhất là Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Trong giai đoạn này là các hoạt động chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn lẻ tẻ riêng rẽ.

Rất nhiều văn thân sĩ phu và nhân dân yêu nước đã hưởng ứng qua việc tập hợp các nghĩa binh, xây dựng lên căn cứ để cùng nhau đấu tranh mạnh mẽ đầy quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên đại bàn rộng lớn thuộc Bắc và Trung Bộ.

Ở Bắc Kì có nhiều cuộc khởi nghĩa được biết đến như cuộc khởi nghĩa Cai Kinh ở Bắc Giang, khởi nghĩa Đốc Tít ở Đông Triều, khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích, khởi nghĩa Tạ Hiện ở Thái Bình và Nam Định, khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuận ở Hưng Yên và Hải Dương, khởi nghĩa Đinh Công Tráng và Phạm Bành ở Thanh Hóa, khởi nghĩa của Phan Đình Phùng và Lê Ninh ở Hương Khê – Hà Tĩnh…

Khu vực Trung Kỳ là khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình, khởi nghĩa của Trần Quang Dự, Nguyễn Duy Hiệu và Nguyễn Hàm ở Quảng Nam, khởi nghĩa của Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi, khởi nghĩa Mai Xuân Thưởng ở Bình Định….

Đến cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi bị bắt và đày đi Angieri, giai đoạn thứ nhất của khởi nghĩa Cần Vương kết thúc.

– Giai đoạn 2: 1888 – 1896, sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa lớn có quy mô và trình độ tổ chức cao hơn, tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Hương Khê [1885 – 1896].

Thực dân Pháp ra sức tăng cường càn quét các phong trào của ta khi đó, do đó các nghĩa quân đều di chuyển hoạt động ở nhiều vùng khác nhau, từ đồng bằng lên trung du và miền núi.

Phong trào Cần Vương chưa có tính liên kết và thiếu đi sự lãnh đạo thống nhất, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại do sự đàn áp của thực dân Pháp mạnh mẽ. Cho đến năm 1896, phong trào Cần Vương kết thúc.

Ý nghĩa lịch sử của phong trào cần vương

Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Có thể thấy một số ý nghĩa lịch sử của phong trào cần vương là:

Cần vương mang nghĩa “giúp vua”. Chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cùng tham gia chống Pháp, khôi phục nền độc lập, khôi phục chế độ phong kiến có vua là người tài giỏi.

Phong trào Cần Vương thể hiện tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc, phong trào thôi thúc ngon lửa của tình yêu quê hương đất nước, quyết tâm đấu tranh chống giặc xâm lược.

Thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp của nhân dân. Một phong trào vũ trang chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi và kéo dài hơn 12 năm.

Phong trào Cần Vương cũng để lại nhiều bài học quý báu cho dân tộc ta trong quá trình đấu tranh chống thực dân Pháp.

Không chỉ vậy phong trào Cần Vương cũng góp phần làm chậm quá trình bình định của Pháp ở nước ta.

Trên đây là nội dung đến phong trào Cần Vương cũng như ý nghĩa lịch sử của phong trào cần vương được chúng tôi tìm hiểu và chia sẻ đến độc giả quan tâm và tìm hiểu.

phong trào Cần Vương diễn ra khi nào?

Sự biến kinh thành ngày 05/7/1885 đã có ảnh hưởng và tác động không nhỏ đối với phong trào giải phóng dân tộc của nước ta vào cuối thế kỷ thứ XIX, đánh dấu một bước ngoặt và mở ra một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Huế và nhân dân Việt Nam, đó là phong trào Cần Vương [1885 - 1896].

Lịch sử lớp 8 phong trào Cần Vương là gì?

Phong trào Cần Vương là một phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại chế độ thuộc địa và bảo vệ chủ quyền dân tộc trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX. Phong trào này đóng góp quan trọng trong việc khơi dậy tinh thần yêu nước, khát khao độc lập, tự do và công bằng cho nhân dân Việt Nam.

phong trào Cần Vương là gì lớp 11?

Phong trào Cần Vương là cuộc khởi nghĩa của vua Hàm Nghi với thực dân, thông qua chiếu Cần Vương được ban bố khắp cả nước và diễn ra vào những năm 1885 đến năm 1896 với quy mô nhỏ và riêng rẽ mang tính chất địa phương.

phong trào Cần Vương diễn ra ở đâu?

Cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo với sự trợ giúp của Cao Thắng, Ngô Quảng, Cao Đạt, Hà Văn Mỹ, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch… Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, trong đó địa bàn chính vẫn là Nghệ An - Hà Tĩnh.

Chủ Đề