So sánh công nghiệp hóa trước và trong đổi mới

– Đảng ta luôn khẳng định công nghiệp hóa là một yêu cầu khách quan và cần thiết đối với nước ta. Vì công nghiệp hóa không phải là vấn đề mới mà các nước tư bản chủ nghĩa đã làm từ lâu nên công nghiệp hóa cũng đã được đề cập trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, thực trạng ở nước ta đang tồn tại một nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp, manh mún, lạc hậu...

– Nước ta xuất phát điểm thấp do đi từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trực tiếp lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng, tiện nghi của xã hội còn nghèo nàn, lạc hậu, năng suất lao động thấp, đời sống của đồng bào nghèo, lạc hậu, còn nhiều khó khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...

– Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

2. Sự khác biệt

– Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Đặc điểm của nước ta là sản xuất nhỏ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng chưa được đào tạo... nên cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí.

Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyển lao động của máy móc, công cụ sang một giai đoạn tự động hóa và điều khiển mới, đó là quá trình hiện đại hóa. Như vậy, bối cảnh toàn cầu đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức mới.

Do đó, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa, tức là chọn mô hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình: một quá trình tuần tự [từ lao động thủ công sang chuyển từ sử dụng máy móc sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc sang sử dụng máy móc]. tự động hóa và điều khiển], quá trình nhảy vọt [lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải nâng cấp ngay, phải đi trước đón đầu. Hội nhập với thời đại].

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới là công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường giúp khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu đòi hỏi phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sẽ sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác có hiệu quả thị trường toàn cầu. Hội nhập quốc tế là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

- Trong thời kỳ trước đổi mới, trụ cột của công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp công ích. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của mọi dân tộc, mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

- Trong thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện công nghiệp hóa được thực hiện theo cơ chế kế hoạch hóa nhà nước tập trung theo kế hoạch nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật. Trong thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện theo cơ chế kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa trong thời kỳ đổi mới, lấy phát triển nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Con người là nhân tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển nhân tố con người phải đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo. Nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, có khả năng đổi mới công nghệ.

Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định trong việc tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao lợi thế cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế. Ở nước ta, để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và cấp bách. Đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ có chọn lọc, mua bằng sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới được thực hiện một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan, tự nguyện, ham làm nhanh, làm lớn, không lo hiệu quả kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta về cơ bản là thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để đạt được mục tiêu này, trước hết nền kinh tế phải tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế còn có nghĩa là thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, văn hóa - xã hội... vì lợi ích phát triển con người, mọi người đều được hưởng lợi từ thành quả của sự phát triển.

- Công nghiệp hóa trong thời kỳ trước đổi mới, kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp, phấn đấu phát triển công nghiệp nhẹ đi đôi với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, vừa phấn đấu phát triển công nghiệp vừa đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương. Trong thời kỳ đổi mới, cần phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Thứ hai, tăng trưởng nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Thứ ba, phát triển kinh tế vùng. Bốn là, phát triển kinh tế biển. Thứ năm, thay đổi cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ. Sáu là, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.

Chủ Đề