Tại sao nói đề tài và nội dung tác phẩm văn học thống nhất những không đồng nhất với nhau

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Thi pháp học là khoa học về hình thức nghệ thuật. Ngay luận điểm xuất phát đó đã chứa đựng một đặc trưng rất cơ bản của cách tiếp cận đối tượng trong bộ môn này. Thi pháp học cần phát hiện ra những quy luật chi phối cái thế giới hết sức đa dạng và phong phú các hiện tượng nghệ thuật. Trong thời cổ đại và trung đại Thi pháp học cùng với Từ chương học (Rhétorique) thuộc vào bộ môn nghiên cứu quy tắc viết văn, phần nhiều rất chi tiết, quy phạm, phiền toái, gần như là những công thức văn chương, làm người ta chán. Đó là lý do vì sao Thi pháp học đã ra đời hàng nghìn năm nay, đã có thời tàn lụi và ngày nay đã hồi sinh với một sức sống chưa từng có.

1.2. Thi pháp học nói chung, thi pháp truyện thiếu nhi nói riêng đang là vấn đề được các học giả quan tâm và đầu tư nghiên cứu. Việc vận dụng lý thuyết thi pháp vào việc nghiên cứu lĩnh vực văn học cụ thể đặc biệt được các nhà nghiên cứu nhiệt tình hưởng ứng và trên thực tế đã gặt hái được nhiều thành tựu. Tính hệ thống như là một đặc trưng cơ bản mang ý nghĩa phương pháp luận của thi pháp học có cơ sở từ trong bản thân đối tượng của khoa học này, các hình thức nghệ thuật. Thi pháp học có nhiệm vụ phát hiện ra những liên hệ đó dưới dạng các quy luật và trong những trường hợp sáng rõ nhất, hình thành nên hệ thống. Thi pháp học hiện thân như một khoa học về kỹ nghệ văn chương, lấy đối tượng nghiên cứu không phải là văn học chung chung, mà nói như Jakobson, là “tính văn học của tác phẩm văn chương”, nó giải thích vì sao một văn bản ngôn từ lại trở thành tác phẩm nghệ thuật. Đề tài này được thực hiện dưới góc độ thi pháp học, theo chúng tôi là một hướng đi đầy triển vọng và mang ý nghĩa khoa học thiết thực của sự thẩm định và sáng tạo nghệ thuật.

1.3. Trong thực tế giảng dạy ở nhiều trường đại học hiện nay, thi pháp học và việc ứng dụng nó vào các công trình nghiên cứu khoa học cụ thể không còn là vấn đề xa lạ đối với tập thể giảng viên, học viên và sinh viên khoa Ngữ văn cũng như các khoa, ngành liên quan. Lựa chọn đề tài Thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại còn là một việc hữu ích đối với bản thân tác giả, là người trực tiếp giảng dạy phân môn Ngữ văn ở một trường THPT. Đề tài này không chỉ giúp ích cho học sinh, sinh viên hiểu biết, khám phá sâu hơn vẻ đẹp văn chương mà còn có thói quen phân tích hình thức nghệ thuật tác phẩm, thay vì chỉ chú trọng tìm hiểu nội dung như trước đây. Đề tài cũng định hướng phân tích một số tác phẩm văn chương trong nhà trường từ góc độ thi pháp học, giúp cho học sinh, sinh viên có năng lực thẩm định, giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường phổ thông.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là Thi pháp học và Thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam.

- Các tác phẩm văn xuôi viết về đề tài thiếu nhi và thi pháp của các tác giả, đặc biệt của hai nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần.

  2.2. Phạm vi nghiên cứu

- Những nghiên cứu để làm đối tượng so sánh là những sáng tác của các tác giả Tô Hoài, Trần Hoài Dương, Phùng Quán, Duy Khán, Võ Quảng, Ma Văn Kháng, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương … những sáng tác văn xuôi viết về thiếu nhi và đề tài thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại – cũng là hai thể loại có được nhiều tác phẩm thành công nhất, thu hút khá nhiều thế hệ người cầm bút trong tiến trình phát triển của văn học đương đại.

- Luận án nghiên cứu, khảo sát, vận dụng lý thuyết Thi pháp học, các tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi đương đại, các phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn chương, nghiên cứu các đối tượng cụ thể trong đó tập trung vào các thành tựu chủ yếu ở hai thể loại là truyện ngắn và tiểu thuyết để làm rõ vấn đề Thi pháp truyện viết cho thiếu nhi đương đại như nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện và tổ chức cốt truyện; Thời gian và không gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong văn xuôi mảng đề tài viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại. Đặc biệt chúng tôi tập trung vào tìm hiểu các tác phẩm tiêu biểu về thi pháp truyện viết cho thiếu nhi của các tác giả Nguyễn Nhật Ánh và Nguyễn Ngọc Thuần.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Với đề tài đã chọn, luận án nhằm mục đích khám phá những vẻ đẹp nghệ thuật của văn học thiếu nhi dưới góc độ thi pháp, đồng thời khẳng định sức mạnh của lý thuyết thi pháp trong việc nghiên cứu những hiện tượng văn học cụ thể. Luận án cũng đem lại cái nhìn hệ thống, chỉ ra những đặc điểm khác biệt về các truyện ngắn viết cho thiếu nhi của một số nhà văn đương đại trong dòng chảy văn học thiếu nhi của nước ta nói chung và nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần nói riêng.

- Qua việc nghiên cứu truyện viết cho thiếu nhi của các nhà văn, chúng tôi cũng vận dụng lý thuyết thi pháp văn xuôi tự sự vào nghiên cứu hiện tượng văn học cụ thể.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

  - Phác họa bức tranh tổng thể, khái quát những phạm trù cơ bản của thi pháp học để vận dụng vào nghiên cứu thi pháp văn xuôi tự sự, xác định các thuật ngữ chính, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của thi pháp học.

  - Phân tích, lý giải cảm thức lịch sử và những khuynh hướng sáng tác tiêu biểu trong thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại của các nhà văn nói chung, đặc biệt của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần nói riêng.

  - Phân tích đặc trưng nghệ thuật của mảng văn xuôi Việt Nam về đề tài thi pháp trên một số phương diện: nghệ thuật xây dựng nhân vật và tổ chức cốt truyện, người kể chuyện, điểm nhìn của người kể chuyện trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần.

- Luận án hướng tới khám phá những nét đặc sắc về thời gian, không gian nghệ thuật,  ngôn ngữ và giọng điệu của truyện thiếu nhi Việt Nam đương đại, đặc biệt trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính: - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: để làm rõ yếu tố “hình thức mang tính quan niệm” của các tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi.

     - Phương pháp lịch sử xã hội: nhằm tìm ra những tác động của hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam đến sự hình thành, phát triển, kế thừa và cách tân của truyện viết cho thiếu nhi.

     - Phương pháp loại hình: nhằm xác định đặc trưng thể loại, các đặc điểm, tính chất của truyện viết cho thiếu nhi.

     - Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để đi sâu vào một số tác giả, tác phẩm, những biểu hiện cụ thể, một vài khía cạnh độc đáo, đồng thời có một cái nhìn khái quát và chung nhất, mang tính hệ thống cho vấn đề được đề cập đến. 

4.2. Để đạt được mục tiêu khoa học của đề tài, luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn học với văn hoá, tâm lý học, ngôn ngữ học), phương pháp cấu trúc, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê… và các thao tác nghiên cứu khác.

5. Đóng góp mới của luận án

5.1. Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện, có hệ thống thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại như một đối tượng độc lập, trọn vẹn. Luận án đã hệ thống quá trình phát triển, phân tích những đặc trưng tiêu biểu, những vấn đề nổi bật mang đến cái nhìn toàn diện về thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam và khẳng định vị trí không thể thiếu của thể tài này trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam.

5.2. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định vị thế và đóng góp cho ngành lý luận, nghiên cứu về văn học thiếu nhi nói chung, thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam nói riêng – lĩnh vực nghiên cứu còn chưa thực sự được quan tâm và chưa có nhiều thành tựu.

Từ việc tổng kết, đánh giá những đặc điểm, khuynh hướng của thi pháp truyện viết cho thiếu nhi, luận án cũng bước đầu muốn thăm dò tìm ra cách đi mới, dựa trên những nền tảng thi pháp học đã có cho đề tài thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại. Luận án là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên, sinh viên, học sinh, những người quan tâm, yêu thích văn học thiếu nhi. Luận án cũng đưa ra gợi ý để đề tài thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại trở nên gần gũi với học sinh hơn qua việc đưa thêm một số tác phẩm, trích đoạn tiêu biểu trong chương trình phổ thông, góp phần mở mang hiểu biết, kích thích sự hứng thú, say mê của các em với thi pháp truyện thiếu nhi Việt Nam.

6. Cấu trúc của luận án

 Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai o, đề tài, thống kêch tluận ...gồm 4 chương: 

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Khái lược về văn học thiếu nhi và truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại.

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật và tổ chức cốt truyện trong truyện thiếu nhi đương đại

Chương 4: Thời gian và không gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật  trong truyện thiếu nhi Việt Nam đương đại.

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghiên cứu về thi pháp

Trong việc định nghĩa thi pháp và thi pháp học, cũng như hầu hết các phạm trù cơ bản của khoa học nghiên cứu văn học và nhiều bộ môn của khoa học nhân văn, ta gặp phải một tình hình chung: ở trình độ phát triển hiện nay, các khoa học này chưa có khả năng đưa ra được những định nghĩa “đơn nghĩa” về đối tượng nghiên cứu của mình.  Xét về mặt định nghĩa, “thân phận của thi pháp học không khác gì mấy so với thân phận tiểu thuyết”. Trên thế giới, thi pháp học đã có lịch sử nghiên cứu trên 2300 năm, bắt đầu từ thời cổ đại, với công trình Nghệ thuật thi ca của Aristotle và Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp. Đầu thế kỉ XX các nhà hình thức luận Nga đã hâm nóng Thi pháp học theo tinh thần hiện đại. Ở Âu Mỹ, xuất hiện nhiều trào lưu nghiên cứu hình thức tác phẩm nghệ thuật. Khái niệm thi pháp học không chỉ được hiểu là một khoa học mà còn được hiểu là một khuynh hướng phê bình.

1.1.1.Các công trình giới thiệu, dịch thuật thi pháp học ở nước ngoài      

Thi pháp học là bộ môn cổ xưa nhất của ngành nghiên cứu văn học. Ở phương Tây thời cổ đại Hy Lạp, thi pháp học nghiên cứu các phương tiện biểu hiện, thể loại, ngôn từ. Thi pháp học (Poetika) của Aristotle là công trình nổi tiếng nhất trong các thi pháp học đương thời, tổng kết kinh nghiệm nghệ thuật Hy Lạp (sử thi, bi kịch, tụng ca), là cẩm nang về các quy tắc sáng tác, các lời khuyên hữu ích để dạy bảo những người làm nghề sáng tạo văn học. Thi pháp học của Aristote do có nội dung triết học đã có ảnh hưởng lớn ở Châu Âu suốt thời cổ đại, thời Phục hưng và kéo dài cho đến hết thế kỷ XVIII, XIX. Các tác giả Horace, Psevdo Longinus, Boileau, Lessing đều có những công trình thi pháp học nổi tiếng.

Ở Trung Quốc, nếu hiểu thi pháp là nghiên cứu văn học như một nghệ thuật thì Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp là công trình thi pháp học sớm nhất, bởi nó dạy cho người ta những tinh túy của phép làm văn. Nhà nghiên cứu Vương Vận Hy nhận xét: Văn tâm điêu long là “bộ sách chỉ đạo việc sáng tác văn chương, chứ không phải là loại sách như lý luận văn học”. Các sách “Thi thoại” có những tìm tòi về thơ, cách làm thơ cũng thuộc về thi pháp học. Các tác giả như Nghiêm Vũ, Chu Bật, Khương Qùy, Ngụy Khánh Chi, Thẩm Đức Tiềm đều dùng thuật ngữ “thi pháp” để chỉ phép làm thơ. Các nhà bình điểm tiểu thuyết như Kim Thánh Thần, Mao Tôn Cương, Lý Trác Ngô, Trương Trúc Pha, Chi Nghiển Trai, Diệp Trú đều đi sâu phân tích nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết, mở ra truyền thống thi pháp học tiểu thuyết của Trung Quốc. Các nền văn học Ấn Độ, Nhật Bản, Ả rập cũng có các truyền thống thi pháp học độc đáo.

Thi pháp học đồng thời là một kiểu “triết luận” về hình thức nghệ thuật: Khái niệm về hình thức và kết cấu trong phê bình văn nghệ thế kỷ XX (Rene Wellek, Hoài Anh dịch), Thi học và Ngữ học, Lý luận văn học phương Tây hiện đại (Trần Duy Châu biên dịch), Lý luận văn học, những vấn đề hiện đại (Lã Nguyên biên dịch), Lý luận và Thi pháp tiểu thuyết (M. Bakhtin – Phạm Vĩnh Cư dịch), Lý luận văn học (Wellek và Warren, do Nguyễn Mạnh Cường và cộng sự dịch)... Phần lớn những công trình này là của các nhà nghiên cứu Nga – Xô viết. Hiện nay, có một số công trình Thi pháp học Âu – Mỹ đã được giới thiệu ở Việt Nam.

1.1.2. Những công trình của các nhà nghiên cứu Việt Nam

Ở Việt Nam, trong nửa đầu thế kỷ XX, đã có một số đề tài bàn về nghệ thuật văn chương. Nhưng hầu như chỉ là những đề tài phê bình, điểm sách chứ chưa phải nghiên cứu khoa học. Ở miền Nam trong giai đoạn 1954 – 1975, có một số đề tài liên quan tới Thi pháp như: Thi pháp (1958 -1960) của Diên Hương, Nguyên tắc sáng tác thơ ca (1959) của Vũ Văn Thanh, Luật thơ mới (1961) của Minh Huy, Từ thơ mới đến thơ tự do  (1969) của Bằng Giang, Lược khảo văn chương (1963) của Nguyễn Văn Trung ... Sau 1975, tình hình nghiên cứu Thi pháp học lắng xuống một thời gian. Mãi đến sau 1986, Thi pháp học mới hình thành với tư cách là một khoa học.

Các tác giả, tác phẩm, giai đoạn văn chương: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (Phan Ngọc), Về Thi pháp thơ Đường (Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử), Thi pháp tiểu thuyết L.Tônxtôi (Nguyễn Hải Hà), Sự phát triển của Thi pháp Đỗ Phủ qua các thời kỳ sáng tác (Hồ Sĩ Hiệp), Truyện Nôm – Lịch sử phát triển và Thi pháp thể loại (Kiều Thu Hoạch), Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính), Thi pháp thơ Tố Hữu, Những thế giới nghệ thuật thơ , Thi pháp Truyện Kiều (Trần Đình Sử), Thi pháp trong văn học thiếu nhi (Bùi Thanh Truyền chủ biên), Thi pháp học ở Việt Nam (Nguyễn Đăng Điệp – Nguyễn Văn Tùng), ... Trong số này, có nhiều công trình được chọn làm tài liệu học tập hoặc tham khảo của sinh viên và giáo viên THPT. Đây là những công trình mang tính lý luận thuần túy, một số tác phẩm có tác dụng mở đường cho Thi pháp học phổ biến ở Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu: Cách giải thích văn học bằng Ngôn ngữ học (Phan Ngọc), Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh), Từ ký hiệu học đến Thi pháp học (Hoàng Trinh), Thi pháp hiện đại (Đỗ Đức Hiểu), Những vấn đề Thi pháp của truyện (Nguyễn Thái Hòa), Góp phần tìm hiểu phương pháp cấu trúc (Nguyễn Văn Dân), Chủ nghĩa cấu trúc và văn chương (Trịnh Bá Đĩnh), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ Thi pháp (Nguyễn Thị Dư Khánh), Trường phái hình thức Nga (Huỳnh Như Phương) ...

Tóm lại, thi pháp học hiện thân như một khoa học về kỹ nghệ văn chương. Thi pháp học phát triển theo ba hướng chính là thi pháp học quy phạm, thi pháp học lịch sử và thi pháp học cấu trúc. Căn cứ trên những thành tựu nghiên cứu về lý thuyết và kết quả ứng dụng vào khảo cứu, phê bình các hiện tượng văn học cụ thể, ngày nay chúng ta đã có một hệ thống điểm nhìn thi pháp mới như: thi pháp thể loại, thi pháp tác giả, thi pháp tác phẩm, thi pháp trào lưu ... Thi pháp học hiện đại đã khẳng định hướng nghiên cứu rất hiệu quả của nó trong lĩnh vực nghiên cứu văn xuôi tự sự. Kết quả là tự sự học ra đời và phát triển theo xu hướng tách lập, riêng biệt, như một phân ngành khoa học độc lập bên cạnh thi pháp học truyền thống.

1.2. Khái quát thi pháp học và thi pháp văn xuôi tự sự

1.2.1. Quan niệm chung về thi pháp học

Sự ra đời của thi pháp học gắn liền với tên tuổi của Aristotle (384 – 322) tr CN với công trình từng được dịch ra tiếng Việt là Nghệ thuật thi ca. Ban đầu thi pháp được Aristotle dùng bao hàm nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ thơ, bởi thơ ca là hình thức đầu tiên của văn học thời sơ khai. Trong thế kỷ XX, bức tranh Thi pháp học rất đa dạng về đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Cùng khoác áo “thi pháp” nhưng mỗi người xác định cho mình một nhiệm vụ khác nhau: nghiên cứu phương pháp sáng tác, cấu trúc tác phẩm, hình thức nghệ thuật, thủ pháp ngôn từ ... Những quan niệm này cũng cho thấy phần nào sự đa dạng về khuynh hướng nghiên cứu phê bình Thi pháp học.

Về một phương diện khác, có thể nói, trong thực tế có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về thi pháp học thì có bấy nhiêu cách hiểu về khái niệm thi pháp và mức độ sử dụng chúng trong từng hiện tượng văn học cũng không giống nhau. Điều này là hiển nhiên bởi từ khi ra đời đến nay, khoa học về thi pháp không ngừng trưởng thành và phát triển. Ngoài ra còn phải kể đến việc các nhà nghiên cứu đã tùy theo mục đích và nội dung vấn đề nghiên cứu của mình mà khai thác khái niệm thi pháp theo các mức độ rộng hẹp, nông sâu khác nhau.

1.2.2. Khái niệm về thi pháp văn xuôi tự sự

Khái niệm thi pháp văn xuôi tự sự được hiểu một cách giản dị như là kỹ thuật kể hay hệ thống thủ pháp, cách thức trần thuật và xây dựng hình tượng trong các thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Chúng ta đã biết bản chất của văn học là phản ánh đời sống bằng hình tượng, chính vì vậy mà hình tượng nghệ thuật là linh hồn của tác phẩm văn học. Nghệ thuật khẳng định vẻ đẹp tâm hồn con người, do đó nghiên cứu tác phẩm văn học là nghiên cứu thế giới tinh thần do con người sáng tạo ra - hình thức tồn tại của tác phẩm nghệ thuật. Bên cạnh những vấn đề trên, dưới góc nhìn thi pháp ta còn có cách nhìn chi tiết hơn ở các khía cạnh như cốt truyện, tình tiết truyện, kết cấu, thi pháp thể loại, thi pháp ngôn ngữ trong tác phẩm văn học một cách hoàn thiện hơn. Nếu nói tinh thần thi pháp tập trung ở bốn vấn đề chính là: Quan niệm nghệ thuật về con người, Thời gian nghệ thuật, Không gian nghệ thuật và Hình tượng tác giả trong sáng tạo nghệ thuật thì hai trong bốn vấn đề mang tính cốt lõi nhất tập trung phản ánh trong sáng tạo nghệ thuật nhất của mỗi tác phẩm đó chính là thời gian và không gian nghệ thuật.

1.3. Tình hình nghiên cứu truyện thiếu nhi và thi pháp truyện thiếu nhi đương đại

1.3.1. Tình hình nghiên cứu truyện thiếu nhi đương đại

Văn học thiếu nhi là những tác phẩm viết về thiếu nhi và viết cho thiếu nhi do người lớn hoặc trẻ em sáng tác, chủ yếu được nhìn qua lăng kính trẻ thơ, có nội dung hướng đến giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách trẻ em ở mọi lứa tuổi khác nhau. Những sáng tác viết cho thiếu nhi bao gồm:

1. Những tác phẩm viết cho trẻ em tuổi mầm non.

2. Những tác phẩm viết cho thiếu nhi.

3. Những tác phẩm viết cho tuổi mới lớn.

Từ cách hiểu Văn học thiếu nhi như trên, chúng tôi đưa ra một số đặc trưng của bộ phận văn học này để đối sánh với văn học người lớn như sau:

Thứ nhất, sáng tác Văn học thiếu nhi phải chứa đựng ý nghĩa giáo dục nào đó nhằm hướng tới sự phát triển nhân cách trẻ em.

Thứ hai, đối tượng phản ánh và tiếp nhận chủ yếu của Văn học thiếu nhi là trẻ em, với tính cách, tâm lý, xúc cảm, tình cảm, nhãn quan khác biệt so với người lớn. Điều này chi phối đến nội dung cũng như các phương thức nghệ thuật trong sáng tác.

Thứ ba, mối quan hệ giữa tác giả và độc giả trong Văn học thiếu nhi là quan hệ “không cân xứng”. Tác giả chủ yếu là người lớn đã hầu như không thể nhìn cuộc sống như trẻ thơ, độc giả, phần lớn là trẻ em với những đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt mà người lớn, dù đã từng là trẻ em, nhưng không thể có (lại) được. Sự hiện diện này cũng là lẽ tất yếu khi Văn học thiếu nhi vẫn phải thực hiện chức phận chính của nó là giáo dục.

Thứ tư, Văn học thiếu nhi vẫn là một bộ phận không thể tách rời của văn học, dù nó là một hiện tượng xuất hiện sau trong lịch sử văn chương nhân loại.

1.3.2. Tình hình nghiên cứu thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại

Văn học thiếu nhi không nằm ngoài hướng đổi mới chung của Văn học Việt Nam, tuy nhiên nó vẫn có những đặc trưng riêng đó là sự coi trọng chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, thể hiện tính nhân bản sâu sắc của văn học dành cho trẻ em.

Đề tài truyền thống (chiến tranh, lịch sử, cách mạng) được tiếp tục khai thác nhưng có sự phát triển mới: vừa tiếp tục những thành tựu cũ, vừa có những nét mới khác trước. Viết về chiến tranh Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán; Bây giờ bạn ở đâu, Cỏ may ngày xưa của Trần Thiên Hương ... nhà văn đã nhìn nhận và khai thác mọi vấn đề trong chiều sâu mới, thực hơn, toàn diện hơn, ý nghĩa nhân văn của các tác phẩm đã hướng tới những số phận.

Đề tài lịch sử đã từng phát triển rất rực rỡ ở thời kỳ chống Mỹ - thời kỳ cả dân tộc ta “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận” của Tố Hữu, truyền thống đánh giặc, truyền thống giữ nước đặc biệt được đề cao. Văn học gắn với cảm hứng thời đại nên cũng thể hiện được những gương anh hùng giữ nước, những nhân vật lịch sử kiệt xuất, trong đó có nhân vật thiếu nhi. Nó đụng tới những cái ác và bi kịch của cá nhân nhưng vẫn thiết tha một niềm thương yêu, tin tưởng vào con người và cuộc sống.

Đề tài sinh hoạt của trẻ em thành phố được nhiều tác giả quan tâm thể hiện khá phong phú, sống động. Có thể khái quát hai mảng hiện thực được các tác giả chú ý đề cập: thứ nhất là những đứa trẻ có cuộc sống gia đình đầy đủ các em chỉ có ăn, học và chơi; thứ hai là cuộc sống của những trẻ em nhà nghèo, vừa lo toan học hành vừa kiếm sống, thậm chí không được đi học, phải lang thang bụi đời hoặc nhọc nhằn kiếm ăn trên đường phố. Bản thân các em không gây ra hai lối sống đối lập này, nhưng các em lại là những người dễ chịu ảnh hưởng. Đó là một hiện thực ai cũng nhìn thấy, là trăn trở của toàn xã hội mà bản thân nhà văn, cho dù đã rất cố gắng có lẽ cũng chưa thể hiện hết được tận cùng những ngóc ngách của khoảng cách ngày càng có vẻ xa vời này.

Sự đổi mới của văn học, đặc biệt văn xuôi Việt Nam đã phần nào kích thích và thúc đẩy thêm quá trình đổi mới của truyện thiếu nhi. Chính vì vậy, có thể nói đổi mới là con đường tất yếu của truyện viết cho thiếu nhi giai đoạn này.

Tiểu kết:

Chặng đường phát triển của truyện viết cho thiếu nhi đương đại tuy có lúc thăng, lúc trầm và có những đề tài không phát triển rực rỡ bằng giai đoạn trước nhưng nhìn một cách tổng quát vẫn có thể khẳng định truyện viết cho thiếu nhi đương đại khá phong phú, đa dạng trong cách khai thác đề tài, chủ đề, mở ra khả năng bao quát những bức tranh sinh động về đời sống trẻ em.

Sự vận động của truyện viết cho thiếu nhi từ 1986 đến nay, phần nào cũng có thể thấy quy luật vận động chung của mảng văn học này. Truyện viết cho các em vẫn tiếp túc kế thừa những truyền thống của truyện thiếu nhi giai đoạn trước, khai thác đề tài trẻ em trong đời sống lịch sử - cách mạng và trong quan hệ với nhà trường. Từ sự tiếp cận trẻ em như thế, các nhà văn đã bộc lộ một cách nhìn mới, một quan niệm mới về trẻ em: không phải nhìn các em trong ý đồ áp đặt của người lớn mà xuất phát trừ chính đối tượng để khám phá chiều sâu tâm hồn và tính cách chúng.

Chương 2

KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ TRUYỆN VIẾT CHO

THIẾU NHI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

2.1. Khái lược về văn học thiếu nhi Việt Nam

2.1.1. Khái niệm “Văn học thiếu nhi”

2.1.1.1. Khái niệm “Trẻ em”

Nhìn từ góc độ pháp lý, trong luật pháp quốc tế, độ tuổi thiếu nhi được sử dụng tương đối thống nhất là dưới 18. Tuy nhiên, trong các Công ước quốc tế như Tuyên bố của Hội quốc liên về quyền trẻ em (1924), Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (năm 1976), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989) ... đã khẳng định việc áp dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tùy thuộc vào nội luật của mỗi nước quy định độ tuổi thành niên sớm hơn. Song, các tổ chức của Liên hợp quốc và quốc tế như UNICEF, UNFPA, ILO, UNESSCO ... đều xác định thiếu là người dưới 18 tuổi.

Ở Việt Nam, pháp luật quy định về độ tuổi của trẻ em chính thức được đề cập trong một văn bản pháp quy sau khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 14 tháng 11 năm 1979, trong đó quy định “Trẻ em nói trong Pháp lệnh này gồm các em từ mới sinh đến 15 tuổi” (Điều 1). Đến năm 1991, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành đã nâng độ tuổi trẻ em lên đến 16 tuổi (Điều 1). “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” . Độ tuổi này tiếp tục được khẳng định tại Điều 1 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ban hành năm 2004. Như vậy trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em được pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những công dân dưới 16 tuổi. Trẻ em từ 10 đến 18 tuổi được coi là “vị thành niên”. Mặc dù quy định độ tuổi thấp hơn so với Công ước quốc tế, nhưng quy định của Việt Nam vẫn được coi là phù hợp bởi quy định mở của Công ước. 

2.1.1.2. Văn học thiếu nhi

“Văn học thiếu nhi” (cách gọi khác là “văn học trẻ em” nhưng ở đây xin thống nhất là “Văn học thiếu nhi”) có một vai trò đặc biệt quan trọng không những trong đời sống trẻ thơ mà cả trong nền văn học dân tộc. Thứ nhất là tính chất giáo dục trong tác phẩm viết cho thiếu nhi phải được đặt ra một cách rõ ràng, dứt khoát và đưa lên hàng đầu; thứ hai có hình thức tươi vui, hồn nhiên, dí dỏm, giàu yếu tố tưởng tượng; thứ ba là hình tượng văn học phải chân thực, cụ thể, sinh động, phù hợp với tâm lý trẻ thơ; thứ tư là ngôn ngữ phải trong sáng, giản dị và dễ hiểu. Văn học thiếu nhi là văn học phục vụ cho những bạn đọc nhỏ tuổi, do đó phải xem thiếu nhi là đối tượng cảm thụ chứ không đơn giản chỉ là đối tượng miêu tả, dù rằng viết về thiếu nhi cho thiếu nhi đọc bao giờ cũng được xem là phương pháp thích hợp nhất.

Văn học thiếu nhi có hai nhóm giá trị chủ yếu: Nhóm giá trị có ý nghĩa con người và giáo dục. Trong nhóm giá trị thứ nhất, Văn học thiếu nhi có giá trị trong việc kích thích hứng thú đọc ở trẻ nhỏ; kích thích khả năng tường thuật như là một thao tác tư duy; kích thích khả năng tưởng tượng xem xét khám phá tự nhiên, con người và ngay cả những trải nghiệm dưới những cách nghĩ mới lạ, khêu gợi trí tò mò, hiếu kỳ và sự ham thích khám phá của trẻ; cung cấp cho trẻ những trải nghiệm gián tiếp, những trải nghiệm phổ quát và qua đó ảnh hưởng đến hành vi của trẻ. Nhóm giá trị thứ hai là tính giáo dục. Văn học quan trọng cho trẻ ngay cả trước và sau khi đến trường. Trong nhiều nghiên cứu đã chứng minh được giá trị lớn nhất của Văn học thiếu nhi là giúp cho các em học đọc, học viết. Thông qua các tác phẩm văn học, các em không những tích lũy được vốn từ phong phú, hiểu được nghĩa của những từ trong văn học mà còn giúp các em rèn được độ trôi chảy khi đọc cũng như những kiến thức nắm bắt và hiểu biết được qua tác phẩm. Đó có thể là cách giao tiếp, là tình cảm đối xử giữa con người với con người, là niềm vui hay nỗi bất hạnh của con người trong cuộc đời mặc dù cũng không hẳn như những gì được phản ánh trong tác phẩm viết cho người lớn.

2.1.2. Qúa trình hình thành, phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam

2.1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945

Văn học thiếu nhi Việt Nam thực sự được hình thành và phát triển với tư cách là một bộ phận của văn học Việt Nam từ khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Mãi đến đầu thế kỷ XX, dưới chế độ thực dân phong kiến, qua những cuộc cách tân văn học theo xu hướng hiện đại hóa, văn học cho trẻ em mới bắt đầu được chú ý. Đến những năm 30, văn học viết cho thiếu nhi trở nên phong phú. Trên văn đàn công khai, xuất hiện hai khuynh hướng: Nhóm Tự lực văn đoàn cho xuất bản các loại sách: Hoa hồng, Hoa mai, Hoa xuân, Tuổi xanh, Truyền bá ... tuy nhiên, những cố gắng của Tự lực văn đoàn cũng chỉ dừng lại ở một chừng mực nhất định, phạm vi phản ánh của loại sách này chỉ bó gọn trong những sinh hoạt của trẻ em thành thị, xa rời cuộc sống khốn khó của nhân dân lao động. Nhìn chung, trước Cách mạng tháng Tám 1945, ở Việt Nam mới chỉ xuất hiện những tác phẩm viết cho thiếu nhi một cách lẻ tẻ chứ chưa thực sự có phong trào sáng tác cho các em, nhưng dù sao đó cũng chính là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng để xây dựng nên nền văn học thiếu nhi Việt Nam.

2.1.2.2. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954

            Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Bác Hồ đã chú ý quan tâm để phát triển nền văn học dành riêng cho trẻ em. Tháng 12 – 1946, báo Thiếu sinh đã ra số đặc biệt với chủ đề: Các em viết, các em vẽ. Mặc dù sáng tác của các em còn đơn giản, sơ lược nhưng đây chính là cái mốc quan trọng trong lịch sử văn học thiếu nhi nước nhà, các em đã được tham gia sáng tác, được trực tiếp nói lên những suy nghĩ, tình cảm của mình trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Bên cạnh tờ Thiếu Sinh, còn có tờ Thiếu niên, Tuổi trẻ Xung phong, Măng non và các sách Kim Đồng, Hoa kháng chiến ... những sách báo này thực sự đã trở thành người bạn thân thiết của trẻ em, góp phần tích cực vào việc bồi dưỡng những đức tính tốt, những tình cảm cao đẹp cho thiếu nhi và trở thành vốn quý ban đầu cho nền văn học thiếu nhi.

Năm 1948, Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam thành lập đã tổ chức một bộ phận văn học trẻ cho trẻ em do nhà văn Tô Hoài cùng Hồ Trúc – Bí thư Trung ương Đoàn phụ trách. Nhà xuất bản Văn nghệ đã cố gắng cho in một loạt sách riêng cho trẻ em mang tên sách Kim Đồng. Mục đích của sách Kim Đồng là cố gắng thực hiện lời Bác Hồ: “Làm cho thiếu nhi biết yêu tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa ... lúc học cũng cần vui, lúc vui cũng cần học”. Để thực hiện mục đích trên, sách Kim Đồng đã kết hợp cả ba mặt: Văn nghệ, giáo dục và chính trị. Sách được viết theo đường lối sáng tác cho thiếu nhi của Hội văn nghệ Việt Nam, đi sát phương châm hoạt động của nhà trường và bạn đọc thiếu nhi. Đây là chặng đường mở đầu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam. Nó chứng tỏ nền văn học viết cho các em rất có cơ sở và điều kiện để phát triển trong tương lai.

2.1.2.3. Giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam kháng chiến chống Mỹ 1955 – 1964

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, đế quốc Mỹ đã tiếp tay cho bọn tay sai phản động, nhảy vào miền Nam Việt Nam nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Vì vậy, miền Nam lại phải thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, còn miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và bắt đầu tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đội ngũ sáng tác cho các em đã được hình thành và ngày càng được bổ sung thêm, do đó số lượng tác phẩm cũng như đề tài phản ánh ngày càng phong phú, đa dạng. Bên cạnh mảng đề tài kháng chiến rất phát triển, những đề tài khác cũng thu được nhiều thành tựu. Có thể nói, giai đoạn này văn học thiếu nhi Việt Nam đã phát triển khá toàn diện và phong phú. Trên cơ sở đó, năm 1961, Nhà xuất bản Văn học cho ra đời Tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi 1945 – 1960 tuyển chọn, giới thiệu 50 tác giả. Đây là tuyển tập thơ văn thiếu nhi đầu tiên ghi nhận thành tựu bước đầu của nền văn học thiếu nhi Việt Nam.

2.1.2.4. Giai đoạn cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1965 – 1975

Văn học thiếu nhi ở giai đoạn này phát triển mạnh, có nhiều cây bút tài năng, nhiều tác phẩm có giá trị và thực sự là một lực lượng lớn góp phần biểu dương, khích lệ những tấm gương sáng trong học tập và chiến đấu. Nhiều tuyển tập đã xuất hiện như Hai bàn tay chiến sĩ (tuyển tập chọn lọc về đề tài kháng chiến chống Pháp); Dòng nước xiết (Tập truyện ngắn và ký về đề tài miền Bắc chống Mỹ); Măng tre (Tuyển tập thơ của Võ Quảng 1971) ... các đề tài cũng được mở rộng phát triển hết sức phong phú.

Sự phát triển mạnh mẽ của loại truyện về con người mới (truyện về người thật, việc thật) dưới nhiều dạng khác nhau là một sự kiện đáng chú ý của văn học cho trẻ em giai đoạn này. Truyện đồng thoại phát triển mạnh với những tác phẩm Chú gà trống Choai của Hải Hồ; Cô Bê 20 của Văn Biển ... với nhiều chất thơ vừa bay bổng, vừa hiện thực. Đặc biệt với truyện Cô Bê 20, thông qua cuộc sống của một cô bê con trên nông trường Ba Vì, Văn Biền đã khắc họa được những phẩm chất tuyệt vời của người anh hùng lao động Hồ Giáo.

Mảng sách khoa học được hình thành và phát triển nhờ vào sự đóng góp của những người làm công tác khoa học và các nhà văn tâm huyết với mảng đề tài này như Viết Linh với Ông than đá và Qủa trứng vuông; Vũ Kim Dũng với Cô kiến trinh sát; Thế Dũng với Thảm xanh trên ruộng; Hoàng Bình Trọng với Bí mật một khu rừng; Phan Ngọc Toàn với Đỉnh núi nàng Ba ... đây là thời kỳ phát triển rực rõ nhất của mảng đề tài này, sau đó nó dần dần bị thu hẹp, cho mãi tới những năm 2000 mới bắt đầu được khôi phục lại.

Thơ cho trẻ em tiếp tục phát triển mạnh. Bên cạnh những tên tuổi quen thuộc như Phạm Hổ, Võ Quảng, Vũ Ngọc Bình, Thi Ngọc, Quang Huy ... còn có thêm Định Hải, Xuân Quỳnh, Ngô Viết Dinh, Trần Nguyên Đào, Thanh Hào với những tập thơ tiêu biểu như Măng tre (Võ Quảng); Chú bò tìm bạn (Phạm Hổ); Chồng nụ, chồng hoa (Định Hải); Mầm bé (Ngô Viết Dinh) ... Đặc biệt, cũng trong thời kỳ này nổi lên hiện tượng các em bé làm thơ với những tên tuổi nổi bật như Trần Đăng Khoa, Cẩm thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Qúy, Nguyễn Hồng Kiên ... mở đầu cho phong trào sáng tác của các em.

2.1.2.5. Giai đoạn đất nước thống nhất và đổi mới sau 1975

Văn học phản ánh xã hội thông qua cá nhân nhà văn, từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất là từ thời kỳ đổi mới đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc toàn diện. Văn học viết cho trẻ em giai đoạn này đã có sự phát triển mạnh và phong phú, đa dạng cùng với sự phát triển chung của nền văn học dân tộc, tuy có tính độc lập nhưng cũng có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của xã hội. Nhìn một cách khái quát, có thể chia quá trình phát triển của văn học thiếu nhi sau 1975 làm hai giai đoạn: giai đoạn 1975 – 1985 và giai đoạn từ 1986 đến nay. Hai giai đoạn này được đánh dấu bằng mốc Đại hội Đảng VI. Đại hội Đảng VI đã tạo điều kiện cho các nhà văn cũng như công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Tuy nhiên vấn đề đổi mới không phải diễn ra đột ngột, ngay lập tức mà sự vận động của nó là cả quá trình. Qua mỗi chặng đường, văn học thiếu nhi có những nét đặc trưng riêng nhưng quá trình phát triển của nó luôn luôn có sự kế thừa nhất định những thành tựu của giai đoạn trước. Vì vậy, sự chia tách ở đây cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối.

2.1.2.5.1. Giai đoạn 1975 - 1985

Đề tài kháng chiến chống thực dân Pháp vẫn chiếm ưu thế. Võ Quảng viết Tảng sáng vẫn tiếp nối mạch cảm xúc của Quê nội). Đó là cảm hứng ca ngợi quê hương đất nước và ngợi ca cách mạng mà Phong Lê gọi là “mạch trữ tình cách mạng”. Ở đề tài này còn có Cơn giông tuổi thơ của Thu Bồn, Đội thiếu niên tình báo Bát Sắt của Phạm Thắng ...

Đề tài kháng chiến chống Mỹ có Hồi đó ở Sa Kỳ của Bùi Minh Quốc, Cát cháy của Thanh Quế ... những tác phẩm này đã mạnh dạn viết về những đau thương, tổn thất nặng nề trong chiến tranh – điều mà trước đây người ta rất ngại nói với các em. Có nhiều tác phẩm được viết trong cảm hứng day dứt về “một thời đạn bom” với lớp lớp trẻ em “mang mũ rơm đi học đường dài”, những em bé từ thành phố sơ tán về nông thôn, phải tự lập, lo toan đủ bề như Ngôi nhà trống của Quang Huy, Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị Như Trang, Những tia nắng đầu tiên của Lê Phương Liên ... với lối kể chuyện nặng về hồi tưởng, kỷ niệm, lời kể dung dị và thiết tha, các tác phẩm này đã gợi lại “một thời để nhớ” thật cảm động và đáng trân trọng của tình thầy trò, tình bạn bè trong những năm chống Mỹ.

Viết về cuộc sống mới khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, các nhà văn chú ý nhiều tới vấn đề đạo đức của con người. Những tác phẩm như Tình thương của Phạm Hổ, Bến tàu trong thành phố của Xuân Quỳnh, Chú bé có tài mở khóa của Nguyễn Quang Thân, Hành trình ngày thơ ấu của Dương Thu Hương ... có thể coi là những tác phẩm xung kích đã mạnh dạn phanh phui những tiêu cực của xã hội với những cái xấu, cái lạc hậu và sự nhỏ nhen, đố kị trong những suy nghĩ của con người.

Đề tài lịch sử rất phát triển ở giai đoạn trước thì đến bây giờ hầu như chững lại. Các tác giả chuyên viết truyện lịch sử trước đây như Nguyễn Đức Hiền, Hà Ân, Lê Vân, An Cương ... thường khai thác lịch sử gắn với các nhân vật anh hùng và truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm của dân tộc, bây giờ gần như bế tắc. Tô Hoài mở ra một hướng khai thác mới, hướng khai thác lịch sử gắn với huyền thoại, phong tục và văn hóa và ông đã khá thành công với Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà chử ...

Trong khoảng mười năm sau cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, văn học nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng đang trong giai đoạn trăn trở, tìm tòi. Mảng thơ viết cho các em gần như bế tắc. Riêng về truyện tuy đã có những dấu hiệu mới, nhưng chưa tạo ra được một biến chuyển rõ ràng. Tuy nhiên, những dấu hiệu đổi mới này là bước khởi đầu, có ý nghĩa lớn cho việc đổi mới đồng loạt của văn học thiếu nhi trong giai đoạn tới – giai đoạn văn học nước ta bước vào thời kỳ biến đổi to lớn và sâu sắc, toàn diện.

2.1.2.5.2. Giai đoạn 1986 đến nay

Đại hội Đảng lần thứ VI đã thực sự đem lại niềm tin và sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, đem lại một không khí mới cho văn học nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng. Trong thời kỳ này đã có sự mở rộng đề tài cũng như hướng tiếp cận đời sống và khả năng khám phá con người. Thời kỳ trước đây, truyện viết cho thiếu nhi tiếp cận trẻ em trên phương diện đời sống cộng đồng, đời sống lịch sử, các đề tài thường được phân chia rất rạch ròi. Các nhà văn tiếp cận trẻ em trong tính chỉnh thể của một nhân cách bị tác động từ nhiều hướng, nhiều chiều, vì thế, đề tài cũng có sự nhòe lẫn, mỗi tác phẩm không phỉa chỉ có một đề tài duy nhất. Văn học đi vào đời sống xã hội nhiều mặt, các hướng quan tâm của sáng tác và tiếp cận trẻ em cũng đa dạng, phong phú hơn. Truyện viết cho thiếu nhi với đặc trưng riêng của nó vẫn đặc biệt coi trọng chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, thể hiện tính nhân bản sâu sắc của văn học dành cho trẻ em.   

2.2. Truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại

2.2.1. Quan niệm chung và cái nhìn toàn cảnh

Các tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi trong mỗi giai đoạn lịch sử có đóng góp trong việc hình thành nhân cách, làm giàu đời sống tâm hồn trẻ thơ. Trên thế giới, mảng đề tài văn học viết  cho thiếu nhi đã được chú ý từ lâu. Có những tác phẩm văn học vượt thời gian, đến nay vẫn được các thế hệ độc  giả Việt Nam yêu thích: Những tấm lòng cao cả (Amicis), Không gia đình (Hecto Malo), Cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer (Mar Twain) ... Nhiều tác phẩm văn học thiếu nhi khác còn được dàn dựng thành phim: Charlie và nhà máy Sô cô la (Roald Dahl), Nhật ký chú bé nhút nhát (Jeff Kinney)...

Từ sau năm 1954 – 1975, xuất hiện nhiều nhà văn viết truyện cho thiếu nhi: Tô Hoài, Đoàn Giỏi, Xuân Sách, Phạm Hổ, Vũ Lê Mai, Trần Thanh Giao ... các tác phẩm viết cho  thiếu nhi giai đoạn 1954 – 1975 tập trung phản ánh hiện  thực cuộc sống trong thời kỳ kháng chiến thống nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Về lĩnh vực thơ, sự xuất hiện của nhà thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa với tập Góc sân và khoảng trời là một thành công đáng kể. Các nhà thơ lớn tuổi như Phạm Hổ, Xuân Quỳnh, Huy Cận ... cũng có những tác phẩm thơ đặc sắc viết cho thiếu nhi, được các em yêu thích.

Văn học thiếu nhi trước 1975 khá nhất quán về giọng điệu, theo xu hướng ngợi ca hướng về hiện thực cách mạng và đại chúng nhân dân. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể nói văn học  thiếu nhi từ 1975 – 1985 là giai đoạn chuẩn bị cho sự đổi mới. Các tác phẩm văn học trong 10  năm này vẫn gần với cách tiếp cận và phản ánh hiện thực với  thời kỳ trước.

Từ sau 1986, cùng với đất nước, văn học Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Đây là thời kỳ văn học có sự chuyển tiếp, trăn trở tìm kiếm con đường đổi mới, và vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Văn học thiếu nhi bởi thế cũng có sự phát triển  và đi theo quy luật chung của nền văn học dân tộc. Chính công cuộc đổi mới đã đem đến cho văn học một không khí mới. Văn học giai đoạn này có tính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong hoàn cảnh phức tạp, đời thường, có nhiều tìm tòi, đổi mới về nghệ thuật.

2.2.2. Sự phát triển của đội ngũ các nhà văn viết truyện cho thiếu nhi

Truyện viết cho thiếu nhi thời kỳ đổi mới đã có bước tiến đáng mừng. Đội ngũ viết về các em, cho các em “mọc lên” nhiều hơn, phong phú hơn, đa dạng  ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, bước đầu đã đạt được những thành tựu quan trọng tạo đà cho văn học thiếu nhi phát triển ở những năm tiếp theo. Với nền móng phát triển trước đó văn học thiếu nhi bước sang thế kỷ XXI đầy khí thế, vừa hội nhập với thế giới, vừa giữ gìn và phát huy những nét đẹp truyền thống của dân tộc. Những nhà văn giao thời giữa hai thế kỷ như Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quỳnh vẫn giữ được phong độ và sức trẻ trung trong thế kỷ mới. Bộ sách “Kính vạn hoa” dài 54 tập của Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện đã có sức hút mạnh mẽ đối với các em thiếu nhi. Bên cạnh những cây bút trưởng thành từ thế kỷ XX là những gương mặt trẻ mới xuất hiện như Nguyễn Ngọc Thuần, Trần Hoàng Vy, Nguyễn Ngọc Tư ... Đặc biệt Nguyễn Ngọc Thuần đã mở đầu cho văn học thiếu nhi thế kỷ XXI hàng loạt những tác phẩm liên tiếp được giải cao. Truyện của anh thu hút người đọc bởi giọng văn trong trẻo, với cái nhìn hồn nhiên đầy sự ngạc nhiên trẻ thơ. Với lối viết giản dị, mộc mạc Nguyễn Ngọc Thuần đã thổi làn gió mới vào văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đương đại.

Nhìn chung, đội ngũ nhà văn sáng tác văn học thiếu nhi trong những năm gần đây  có bước tiến triển mới so với những năm trước kia. Thiếu nhi Việt Nam bên cạnh việc đam mê các tác phẩm nước ngoài đã ít nhiều quay về với cội nguồn dân tộc.  Các em đã tìm thấy những cuốn sách hay cho riêng mình của các nhà văn trong nước. Tuổi thơ của các em được tái hiện vui tươi, sống động qua những trang viết của những nhà văn thiếu nhi thực sự như Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần ... Đội ngũ sáng tác cho thiếu nhi đã xuất hiện đông đảo hơn nhưng không phải ai cũng viết hay, không phải tác phẩm nào ra đời cũng thu hút được các em. Chính vì vậy đội ngũ sáng  tác cho thiếu nhi trong những năm gần đây có phát triển về số lượng nhưng chất lượng vẫn đang là một vấn đề bức thiết đặt ra cho chúng ta

2.2.3. Sự đổi mới và mở rộng đề tài

Cách mạng và kháng chiến là một trong những đề tài quan trọng được các nhà văn thời bình khai thác. Sống trong xã hội phát triển nhưng cũng rất phức tạp thì giáo dục trong gia đình là rất quan trọng đối với các em. Đã có rất nhiều tác phẩm viết về đề tài này như Út Quyên và tôi, Em gái của Nguyễn Nhật Ánh; Kẻ thù của Quế Hương ... sự đổ vỡ của mô hình truyền thống – gia đình ba thế hệ sống vui vầy đầm ấm, cùng với sự khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không ít tới cuộc sống của mỗi cá nhân, đặc biệt là đời sống trẻ em. Tác phẩm Bỏ trốn của Phan Thị Thanh Nhàn; Ngày xưa của Trần Thiên Hương; Mảnh vỡ của Lê Cảnh Nhạc ... là một ví dụ. Những tai họa và những nỗi bất hạnh thời bình đã rình rập đe dọa đời sống các gia đình và đau khổ ập xuống mái đầu xanh của con trẻ.

Mảng sinh hoạt thường nhật của trẻ em cũng được các nhà văn quan tâm. Sinh hoạt của trẻ em thành phố được các nhà văn phản ánh ở hai mảng hiện thực đó là cuộc sống của những đứa trẻ trong các gia đình khá giả và cuộc sống của những trẻ em nhà nghèo vừa học vừa phải lo toan kiếm sống thậm chí đi bụi đời. Các tác phẩm tiêu biểu là Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh; Hoa trên đường phố của Thu Trân; Kiềng ba chân của Đoàn Lư; Ngày khai trường trong mơ của Kim Hài ... Đặc biệt Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh được đánh giá là hiện tượng nổi bật nhất và được các em nhỏ đặc biệt ưa thích. So với các tác phẩm viết về sinh hoạt của trẻ em thành phố thì những tác phẩm viết về trẻ em nông thôn ít hơn. Viết về trẻ em ở nông thôn các nhà văn thường đề cập đến những mảnh đời, những số phận nghèo bi đát, chịu nhiều thiệt thòi như Nước mắt ngày tựu trường, Thành hoàng quê ngoại của Đào Hữu Phương ...

Trẻ em miền núi thời kỳ này cũng được các nhà văn dành nhiều tâm huyết. Những tâm tư, tình cảm của các em vùng dân tộc thiểu số được miêu tả hồn nhiên, chất phác như bản tính vốn có của các em vậy. Tiêu biểu như Chú bé thổi kèn của Quách Liêu; Đường về với mẹ chữ của Vi Hồng,  ... đề tài văn học thiếu nhi ở miền núi đang phát triển và bước đầu đã tạo được sức hút trong lòng độc giả, góp phần làm phong phú mảng đề tài văn học thiếu nhi của Việt Nam.

Như vậy đề tài viết cho thiếu nhi thời kỳ đương đại phong phú và đa dạng. Bên cạnh đề tài truyền thống là đề tài cách mạng và kháng chiến vẫn được các nhà văn duy trì và viết theo hướng mới chân thực và gần gũi hơn thì đề tài gia đình, đề tài sinh hoạt thường nhật cũng được các nhà văn đi sâu khai thác. Đã có nhiều tác giả có những tác phẩm xuất sắc viết cho thiếu nhi thời kỳ này, tiêu biểu là nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần. Những tác phẩm của anh đạt giải cao liên tiếp và anh được coi là “một hiện tượng của văn học thiếu nhi Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI” (Lã Thị Bắc Lý), Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ (Nhiều tác giả). Và đặc biệt thời kỳ này văn học thiếu nhi viết cho các em miền núi cũng được chú ý và đã có một số tác phẩm được đông đảo người đọc yêu mến. Đó là một bước tiến mới tạo nên sự phát triển đồng đều và bền vững trong tương lai của văn học thiếu nhi trong dòng chảy văn học Việt Nam. Dù còn nhiều vướng mắc nhưng văn học thiếu nhi nước ta đã được bạn bè quốc tế biết đến với những tác phẩm Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ (Nguyễn Ngọc Thuần); Kính vạn hoa, Chuyện xứ LangBiang (Nguyễn Nhật Ánh) ...

2.3. Các tác giả tiêu biểu viết truyện thiếu nhi đương đại

Cuộc thi Văn học thiếu nhi – Vì tương lai đất nước do Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, khởi động lần thứ nhất năm 1993 đến lần thứ 3 năm 2002 đã mang đến tên tuổi của những gương mặt tiêu biểu như Nguyễn Thị Bích Nga, Thu Trân và đặc biệt là Nguyễn Ngọc Thuần với rất nhiều các tác phẩm tiêu biểu như: Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (tác phẩm đạt giải thưởng Peter Pan); Giăng giăng tơ nhện (giải Ba cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ II năm 2000 - 2001); Một thiên nằm mộng (giải A cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi của Nhà xuất bản Kim Đồng 2001 - 2002). Năm 2001, cuộc thi Cây bút tuổi hồng do Trung ương Đoàn phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, thu hút đông đảo lực lượng sáng tác trẻ tham gia với những tên tuổi được ghi nhận như Đỗ Tú Cường, Vũ Hương Nam, Nguyễn Đan Thi ... đáng chú ý nhất phải kể đến Cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi được  tổ chức với sự phối hợp của Nhà xuất bản Kim Đồng, Hội Nhà văn Việt Nam và Đại sứ quán Đan Mạch, nằm trong dự án hỗ trợ văn học thiếu nhi do xứ sở “Nàng tiên cá” của Andersen tài trợ từ năm 2006 đến 2015. Nhiều cây bút chuyên và không chuyên trong sáng tác văn học nói chung, văn học thiếu nhi nói riêng đã được biết đến như Chu Thanh Hương, Lục Mạnh Cường, Đỗ Thái Thanh, Vũ Thị Thanh Tâm, Phong Điệp, Nguyễn Xuân Thủy, Trang Thanh, Nguyễn Thị Hồng Hạnh ... trong đó có nhiều tác giả liên tiếp đạt giải thưởng qua các cuộc vận động như Phương Trinh, Trần Đức Tiến, Nguyên Hương, Trương Tiếp Trương, Nguyễn Thị Bích Nga, Đỗ Bích Thủy ... và cũng không ít tác giả đạt giải khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường như Vũ Hương Nam, Trương Huỳnh Như Trân ... đó là những dấu hiệu đáng mừng cho mảng văn xuôi viết cho thiếu nhi. Đằng sau những thấu hiểu, những sở thích, những câu chuyện thú vị, bao giờ cũng được “cài cắm” một cách khéo léo những vấn đề giáo dục, những bài học nhân văn phù hợp với lứa tuổi các em mà không làm các em nhàm chán.

2.3.1. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần

2.3.1.1. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh

* Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh

Khởi đầu sự nghiệp sáng tác bằng thơ, Nguyễn Nhật Ánh bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi, tác phẩm đầu tiên được in cũng là một tập thơ mang tên Thành phố tháng tư in chung với Lê Thị Kim do nhà xuất bản Tác phẩm mới in năm 1984, sau đó là Đầu xuân ra sông giặt áo, Tứ tuyệt cho nàng, Lễ hội của đêm đen, Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh. Ngoài ra, thơ Nguyễn Nhật Ánh còn được chọn đăng trên nhiều công trình khác nhau với nhiều tác giả khác như Thơ tình áo trắng, Thơ Thành phố Hồ Chí Minh hai mươi năm (1975 - 1995), Thơ tình tuổi học trò, Mùa hạ trong thi ca ... Thơ Nguyễn Nhật Ánh không cầu kỳ hoa mỹ mà rất giản dị, chân thành, dễ đọc, dễ nhớ, dễ “vào”. Bạn đọc còn bắt gặp rất nhiều bài thơ của ông trong những tác phẩm truyện khi nhà văn mượn lời nhân vật để làm thơ. Thơ Nguyễn Nhật Ánh rất hay nhưng dường như độc giả biết đến cái tên Nguyễn Nhật Ánh như một nhà văn nhiều hơn. Độc giả không khỏi ngỡ ngàng, ngưỡng mộ trước khả năng làm việc của Nguyễn Nhật Ánh, hơn trăm đầu sách trong vòng hơn hai mươi năm cầm bút chuyên nghiệp, trong đó có nhiều cuốn sách được tái bản nhiều lần. Cho đến thời điểm này, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn viết cho thiếu nhi có nhiều đầu sách nhất Việt Nam. Không chỉ nhiều về số lượng, tác phẩm của nhà văn còn nhận được nhiều giải thưởng cao quý và đặc biệt là sự đón đọc của đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước.

Trước Nguyễn Nhật Ánh đã có cả một thế hệ các tác giả đã rất thành công khi viết cho thiếu nhi như Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổ, Phùng Quán, Đoàn Giỏi ... Nhưng đến Nguyễn Nhật Ánh, ông vẫn tạo dựng được cho mình một phong cách riêng, một lối đi riêng để tạo nên thành công và phong cách riêng cho mình mà đã ảnh hưởng đến lối viết của rất nhiều nhà văn thiếu nhi trẻ sau ông. Nguyễn Nhật Ánh viết gì cũng đều thu hút lứa tuổi thiếu nhi đọc, bởi vì chính ông đã tạo nên một thương hiệu đáng tin cậy không cần kiểm chứng. Nguyễn Nhật Ánh đã chạm tới được trái tim tuổi thơ và cả trái tim của những người từng là trẻ thơ bằng một trái tim đồng cảm, chân thành.

Tóm lại, Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng cho mình một tư tưởng, quan điểm riêng về ngôn ngữ nghệ thuật. Nó chính là kim chỉ nam để ông viết những tác phẩm văn học phù hợp với các em thiếu nhi. Ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông đều tự nhiên, ngây thơ và dí dỏm. Nguyễn Nhật Ánh đưa ngôn ngữ của tuổi học đường vào trong tác phẩm để các em được tắm trong dòng sông của chính mình và người lớn được sống lại trong những ký ức ngọt ngào của tuổi thơ. Nhờ tư tưởng, quan điểm về ngôn ngữ nghệ thuật rõ ràng, Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn gặt hái được nhiều thành công trong nền văn học thiếu nhi.     

2.3.1.2. Nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần

* Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Thuần

Nguyễn Ngọc Thuần với tên gọi được nhắc đến trong đời sống văn học nước nhà những năm gần đây. Anh đến với văn học thiếu nhi khi trước đó đã có rất nhiều cây bút mà tên tuổi cũng như tác phẩm của họ đã thành công và trở thành nhu cầu giải trí không thể thiếu đối với bạn đọc như Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổ, ... Anh nhìn văn học với con mắt của một họa sĩ nên tạo ra một thứ văn mới lạ độc đáo thu hút người đọc. Anh đã tự tay vẽ những hình họa mô phỏng trong những câu chuyện nhỏ bé. Thế giới con người và vạn vật đều được nhà văn thiết kế tỉ mỉ bằng đồ họa, khiến đường nét sắc ngọt mĩ miều. Vì thế, trong những tác phẩm của Nguyễn Ngọc Thuần, độc giả hoàn toàn được chiêm ngưỡng những bức tranh với đầy đủ những gam màu hình khối đặc sắc của hội họa. Hội họa trở thành nguyên liệu cho tác giả nhào nặn, tạo hình cho những nhân vật của mình. Chính những điều đó đã quyện đặc vào nhau làm nên một thứ văn chương mà mỗi chúng ta không chỉ ngắm, chiêm ngưỡng mà còn phải cảm nhận. Cuộc sống thời thơ ấu gắn liền với quê hương cũng là nguồn cảm xúc, là tiền đề cho những câu chuyện anh viết. Nguyễn Ngọc Thuần viết văn bằng chính tình cảm của mình, của cha mẹ, của hàng xóm láng giềng, của bạn bè mà anh cảm nhận được.

            Nguyễn Ngọc Thuần hiểu rất rõ một điều quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật, anh luôn thử nghiệm cách viết mới lạ, độc đáo, sáng tạo để mang đến cho độc giả những cảm giác khoan khoái, dễ chịu sau khi gấp lại những trang văn của anh. Và cũng chính sự sáng tạo không ngừng nghỉ này đã mang lại cho anh những giải thưởng cao quý mà không phải nhà văn nào cũng có thể đạt được. Có thể nói, với những trang viết của mình Nguyễn Ngọc Thuần đã  góp một tiếng nói làm đa dạng thêm cho văn học Việt Nam đương đại. Anh đã đem đến cho độc giả cách hình dung về văn học và cách cảm thụ không giống như trước nữa, giúp cho độc giả tìm được những dư âm trong trẻo, hồn nhiên còn lắng lại trong tâm hồn mình.

2.3.2. Các tác giả khác

Từ sau Đại hội Đảng VI, đất nước ta bước vào giai đoạn đổi mới, vì thế văn học cũng có sự đổi mới và văn học thiếu nhi cũng nằm trong quá trình đổi mới đó. Các nhà văn được tự do viết về những điều mình trăn trở. Trong đó có những điều mà những năm tháng đất nước có chiến tranh họ không thể giãi bày. Viết tự truyện là một trong những cách nhà văn bày tỏ nỗi lòng của mình trong tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Hàng loạt tác phẩm đã ra đời như Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Tuổi thơ êm đềm của Võ Hồng, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán; Côi cút giữa cảnh đời; Chó Bi, đời lưu lạc của Ma Văn Kháng; Đường về với mẹ Chữ của Vi Hồng; Chân trời mở rộng của Đoàn Lư; Bà và cháu của Đặng Thị Hạnh; Tuổi thơ khát vọng của Vũ Đức Nguyên; Tiếng vọng tuổi thơ của Vũ Bão ...

Các sự kiện được nhìn qua đôi mắt trẻ thơ trong sáng thơ ngây, nhiều khi các sự kiện với người lớn là rất quan trọng thì đối với nhân vật trong tác phẩm dường như chẳng quan trọng gì. Cũng chính cái cách nhìn như vậy nên khi đọc tự truyện viết cho thiếu nhi ta luôn có cảm giác cuộc sống của trẻ thơ thật đáng yêu và bình yên cho dù trên thực tế nhân vật phải trải qua những sự kiện hết sức quan trọng. Việc đơn giản hóa các biến cố, sư kiện nhiều khi cũng giúp cho tác phẩm mang đậm dấu ấn tuổi thơ cho dù nhà văn viết tác phẩm khi đã trải qua gần hết cuộc đời mình.

Truyện viết cho thiếu nhi là những hồi ức của nhà văn về thời thơ ấu của mình nên các biến cố, sự kiện thường  gắn với tuổi ấu thơ của chính tác giả. Và cũng chính vì muốn cắt nghĩa sự ra đời, lớn lên và trưởng thành của mình nên nhà văn thường đưa vào tác phẩm các biến cố và sự kiện gắn với những biến động của xã hội và thời đại. Có thể là những biến cố tác động trực tiếp, hoặc gián tiếp đến nhân vật qua một nhân vật khác. Xã hội thời đại luôn có tác động sâu sắc đến cuộc đời và số phận của nhân vật, nhất là nhân vật chính.

Tiểu kết:

Khái niệm văn học thiếu nhi được nhận diện ở nhiều góc độ: chủ thể sáng tác, nhân vật trung tâm, mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận. Mọi tác phẩm được nhà văn sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi và đôi khi cũng là người lớn hoặc là một cơn gió, một loài vật, một đồ vật, một cái cây... Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các em mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi. Những tác phẩm mà thiếu nhi thích thú tìm đọc, bởi vì các em đã tìm thấy trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách nghĩ cách cảm và cách hành động của chính các em, hơn thế, các em còn tìm thấy ở trong đó một lời nhắn nhủ, một lời răn dạy với những nguồn động viên khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích trong quá trình hoàn thiện tính cách của mình. Văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm hoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tự nhiên ... nhưng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với vốn trải nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện đạo đức, tâm hồn cho trẻ. Văn học thiếu nhi mang dấu ấn lịch sử, hơi thở thời đại.

Chương 3

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

3.1.1. Khái lược về nhân vật

Nhân vật là “hình tượng nghệ thuật về con người”, có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho những đặc điểm giống với con người. Trong tiếng Hy Lạp cổ, nhân vật (đọc là “persona”), lúc đầu mang ý nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên trên sân khấu. Về sau, thuật ngữ này được dùng với tần số nhiều nhất, thường xuyên nhất để chỉ đối tượng mà văn học miêu tả và thể hiện. Xây dựng nhân vật là vấn đề rất quan trọng mà nhà văn quan tâm. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết như: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng ... những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những  giới thiệu ban đầu đó.

Ở tác phẩm tự sự, nhân vật được chia thành nhiều loại khác nhau, xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật có nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Xét về góc độ kết cấu có nhân vật chính, nhân vật phụ. Xét theo góc độ thể loại có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch. Có thể nói nhân vật là hạt nhân của sự sáng tạo nghệ thuật, là trọng điểm để nhà văn lý giải mọi vấn đề của cuộc sống. Nhân vật có thể chỉ là sự hóa thân, là hình bóng, là mộng tưởng của tác giả hoặc cũng có thể được xây dựng từ những nguyên mẫu của đời sống kết hợp với năng lực hư cấu của nhà văn. Để xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Điều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời, hiểu người và phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.

3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thiếu nhi đương đại

3.1.2.1. Nhân vật trẻ em trên nhiều bình diện, gắn bó, gần gũi với tuổi thơ

Chân dung nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi đương đại không còn bị nhòe mờ trong bức tranh chung của tập thể. Mỗi nhân vật đều mang đến những diện mạo, cử chỉ, y phục, tác phong ... riêng, không ai giống ai, mỗi người một vẻ. Đứa bướng bỉnh, ngay thẳng, đứa rụt rè, nhút nhát, đứa hồn nhiên, tươi vui, đứa lại mơ mộng, lãng mạn ... Việc khắc họa chân dung nhân vật trẻ em ở truyện thiếu nhi đương đại, các nhà văn đã thiết lập được mối quan hệ gần gũi hơn giữa người viết – nhân vật – bạn đọc. Nhân vật trẻ em được miêu tả chân thực hơn, sinh động hơn và cũng giống trẻ em hơn. Rõ nét nhất là kiểu nhân vật trẻ em hồn nhiên nhí nhảnh. Có thể thấy, khi thể hiện nhân vật trẻ em hồn nhiên, các tác giả thường tập trung miêu tả cử chỉ, điệu bộ, động tác của nhân vật nhằm thể hiện những nét tinh nghịch của trẻ thơ đồng thời tạo nên nét tươi vui trong bức chân dung. Qua việc khắc họa hình dáng, cử chỉ, điệu bộ, các nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam đương đại hiện lên sinh động, cá tính, không phải là những “hình nộm” để dẫn truyện. Chúng đã tạo nên một thế giới đa sắc màu nhộn nhịp, sống động và đầy mới mẻ.

3.1.2.2. Ngôn ngữ trẻ thơ

Từ bỏ khuynh hướng sử thi và cũng không bắt buộc phải mang tiếng nói điển hình cho một giai cấp tầng lớp cụ thể nào, truyện viết cho thiếu nhi đương đại khá linh hoạt trong ngôn ngữ. Nếu như trước đây, trẻ em buộc phải sắm vai những cán bộ chính trị, tuyên giáo ... trong lời nói, thì nay chúng được nói tiếng nói của trẻ thơ, ngôn ngữ của trẻ thơ. Các nhà văn đưa ra những hệ thống ngôn ngữ - khẩu ngữ nhằm tăng cường khả năng cá tính hóa nhân vật. Thay bằng cách xưng hô “bạn – tôi”, “tớ - cậu” ... rất chuẩn mực là cách gọi nhau “tao – mày”, “tớ - ấy” ... đời thường, thân thiết. Cũng giống như trong văn học người lớn, khi trở về với kiểu ngôn ngữ đời thường, nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi cũng phát ngôn những từ ngữ thông tục, bụi bặm (Tẩn), thậm chí chúng có thể văng tục (Đếch sợ), điều này cho thấy khuynh hướng dân chủ hóa trong ngôn ngữ của văn học người lớn sau 1975 cũng đã lan sang văn học thiếu nhi. Nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại thực hiện một kiểu đối thoại tước bỏ húy kị, lề lối, mỹ miều. Dùng ngôn ngữ tự nhiên, ngô nghê của trẻ để tái hiện nhân vật cũng là cách các nhà văn viết truyện thiếu nhi thế giới đã sử dụng, ngôn ngữ của nhân vật được các nhà văn ghi lại chứ không phải bằng sự dụng công “biên tập”. Vì thế nó đến với trẻ con một cách hết sức tự nhiên như đời sống thường ngày của chúng.

3.2. Nhân vật người kể chuyện

Người kể chuyện là người kể, là chủ thể. Người kể chuyện còn được gọi là người trần thuật, thường chiếm giữ điểm nhìn trần thuật. Có thể gặp trong tác phẩm người trần thuật theo ngôi thứ ba ẩn mình và người trần thuật lộ diện theo ngôi thứ nhất đồng thời là nhân vật.

3.2.1. Ngôi kể của người kể chuyện

Người kể chuyện là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, là phương tiện quan trọng để thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình. Người kể chuyện chính là nhân tố thay tác giả thể hiện những quan điểm của mình, đó có thể coi như chiếc cầu nối giữa nhân vật và độc giả, tuy nhiên không nên đồng nhất người kể chuyện và tác giả. Bởi lẽ quan điểm của tác giả rộng hơn rất nhiều so với những gì người kể chuyện có thể phát ngôn trong giới hạn của tác phẩm. Khi nhìn nhận về người kể chuyện, ngôi kể là vấn đề được xét đến đầu tiên. Ngôi kể cho chúng ta biết ai là người kể lại câu chuyện trong truyện. Trong tác phẩm tự sự tồn tại ba loại ngôi kể tương ứng với các ngôi nói chuyện trong ngữ pháp học đó là ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Tuy nhiên, ngôi thứ hai là vai người nghe, người nhận thông tin nên rất khó thể hiện trong tự sự, vì thế người kể chuyện ở ngôi thứ hai rất ít khi xuất hiện trong các tác phẩm văn học mà chủ yếu là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Ngôi kể là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thành công cho tác phẩm. Ngôi kể thể hiện điểm nhìn mà tác giả lựa chọn để kể lại câu chuyện, câu chuyện có thu hút và thuyết phục người đọc hay không, chính là nhờ một phần lớn vào yếu tố này. Tùy theo ý đồ sáng tác mà khi xây dựng cốt truyện, nhà văn sẽ lựa chọn ngôi kể hợp lý nhất.

*Ngôi thứ nhất: Ngôi kể phổ biến hơn cả là ngôi thứ nhất mà trong đó “Tôi” đóng vai trò người đang đối thoại với bạn đọc, kể lại câu chuyện của loài vật. Trong trường hợp này, người kể chuyện giống như một người bạn lớn đang tâm tình cùng các em nhỏ. Hình thức kể chuyện qua ngôi kể thứ nhất dạng này mang dáng dấp của việc các bà, các mẹ kể lại nhưng câu chuyện cổ tích cho các em nghe, vì thế tuy hình thức là ngôi thứ nhất nhưng câu truyện vẫn giữ được sự khách quan cần thiết, phối hợp cùng giọng kể tâm tình, lúc hài hước lúc sâu lắng, khơi gợi được sự yêu thích theo dõi của lứa tuổi thiếu nhi. Có khi người kể chuyện chỉ thuật lại câu chuyện, không bình luận hay nhận xét gì. Với cách vận dụng một cách linh hoạt, ngôi thứ nhất mang đến cho câu truyện màu sắc khách quan, thái độ thân mật gần gũi, tạo sự giao lưu, đối thoại với các em nhỏ, đóng vai trò người dẫn dắt đưa các em nhỏ khám phá thế giới loài vật trong các câu chuyện.

*Ngôi thứ ba: Đây cũng là ngôi kể được nhiều nhà văn lựa chọn vì giữ cho tác phẩm mang tính khách quan, và khơi gợi được nhiều suy nghĩ ở người đọc. Khi sử dụng ngôi kể thứ ba, do tác giả không xuất hiện trong câu truyện mà để cho nhân vật của mình phát ngôn, nên người đọc có thể lầm tưởng tác giả hoàn toàn không quan tâm, không bày tỏ thái độ gì, hoàn toàn lạnh lùng dửng dưng đứng ngoài câu truyện. Người đọc nhiều khi bị cuốn vào nhân vật mà quên đi tác giả. Nhưng sự dửng dưng lạnh lùng chỉ là cái vẻ bề ngoài, tác giả thực ra đã khéo léo gửi gắm thái độ của mình. Đó có thể hiểu được những tâm tư, tình cảm ấy của tác giả, người đọc phải thấu hiểu các vấn đề trong câu truyện. Với truyện thiếu nhi, cách ẩn vấn đề như vậy tuy có phức tạp với lứa tuổi các em nhưng đồng thời cũng là một cách khơi gợi, khích lệ các em tư duy, suy nghĩ để đào sâu vấn đề. Với cách sử dụng ngôi kể này, tác giả đứng ở vị trí trần thuật khách quan, giữ một khoảng cách nhất định để nhìn nhận, đánh giá sự việc. Các bạn đọc nhỏ tuổi tiếp nhận câu truyện một cách thoải mái, tự nhiên, có thể bình đẳng đánh giá sự việc theo cách riêng của mình, không bị áp đặt vào những suy nghĩ, nhận định của tác giả tạo nên sự hấp dẫn đối với các em.

3.2.2. Điểm nhìn của người kể chuyện

3.2.2.1.  Điểm nhìn trần thuật

Điểm nhìn trần thuật là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu truyện. Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Điểm nhìn trần thuật có liên quan tới toàn bộ các loại điểm nhìn khác như: điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn đánh giá, điểm nhìn tu từ.  Điểm nhìn thể hiện quan điểm của người kể chuyện và góp phần thể hiện thế giới quan của nhà văn trong tác phẩm. Thông qua tác phẩm ta có thể thấy được thái độ yêu, ghét ... của nhà văn đối với nhân vật của mình. Có nhiều cách phân chia điểm nhìn trần thuật như trường điểm nhìn tác giả và trường điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài, trần thuật chủ quan và trần thuật khách quan ... trong văn học truyền thống, chủ yếu các tác phẩm được triển khai từ cái nhìn tương đối ổn định. Các nhà lý luận gọi đó là cái nhìn “biết trước”. Nghĩa là người kể chuyện miêu tả, tái hiện đời sống chủ yếu từ ngôi thứ ba. Về cơ bản, văn học truyền thống chủ yếu xuất phát từ điểm nhìn bên ngoài. Đến văn học hiện đại điểm nhìn trần thuật trở nên phong phú và đa dạng. Điểm nhìn không cố định mà bất biến, linh hoạt.

3.2.2.2.  Điểm nhìn trong văn xuôi tự sự

*Điểm nhìn tác giả: Người trần thuật trong truyện có thể hiểu là người kể chuyện toàn tri (như sử quan), người kể chuyện ở ngôi thứ ba vô nhân xưng (không hoàn toàn độc quyền trần thuật) hoặc ở ngôi thứ nhất (người chứng kiến sự việc). Thông thường, tác giả đứng ở ngôi thứ ba để kể chuyện. Nhưng cũng có khi, tác giả xưng “tôi” xuyên suốt tác phẩm, người ta gọi đây là “cái tôi thứ hai” của tác giả. Ngôi thứ ba mang tính khách quan, ngôi thứ nhất mang tính chủ quan.

*Điểm nhìn nhân vật: Tác giả có khi trao quyền kể chuyện cho nhân vật, tức là trao điểm nhìn cho nhân vật. Đây là một việc làm khôn khéo vì những lẽ sau: Nó tránh được sự đơn điệu vì tác phẩm có nhiều người cùng tham gia kể chuyện. Tác giả mượn nhân vật kể chuyện nói lên những điều mà tác giả không tiện nói ra. Cũng có thể mượn lời nhân vật để tăng tính khách quan, tạo ra nhiều cách đánh giá khác nhau làm tăng cường tính đối thoại dân chủ.

*Điểm nhìn không gian: Điểm nhìn không gian, người ta thường nói đến vị trí nhìn, phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn, trường nhìn, cách nhìn, sự luân phiên điểm nhìn qua các không gian ... Điểm nhìn này được dành cho cả tác giả lẫn nhân vật, gọi chung là chủ thể nhìn. Chủ thể có thể đứng dưới thấp hay trên cao, đứng gần hay xa để miêu tả nhân vật. Chủ thể nhìn khách thể từ khía cạnh nào: tốt hay xấu, toàn diện hay phiến diện, mặt trước hay mặt sau. Nên tham chiếu điểm nhìn giữa các nhân vật với nhau và với tác giả để xem thử cách nhìn đời của họ đúng hay sai, thích hợp hay không thích hợp ...

*Điểm nhìn thời gian: Ta hiểu thời gian ở đây bao gồm thời gian được trần thuật và thời gian trần thuật. Thời gian sự kiện có thể được nhìn liền mạch hoặc đứt khúc theo kiểu “thời gian vận động nhảy cóc”. Có khi tác giả dõi nhìn sự kiện theo thứ tự thời gian nhưng cũng có lúc đảo lộn điểm nhìn quá khứ - hiện tại – tương lai đan xen. Nhìn vào cách phân biệt đối xử các loại thời gian, ta cũng có thể thấy được tư tưởng tác giả. Thông thường người ta xem thời gian là một yếu tố không có hình hài nhưng dưới cái nhìn của các nghệ sĩ, thời gian cũng có hình dáng của nó.

*Điểm nhìn tâm lý: Điểm nhìn tâm lý được cụ thể hóa thành các cặp phạm trù: điểm nhìn bên trong – bên ngoài, điểm nhìn chủ quan – khách quan ... Nhân vật chỉ được miêu tả từ điểm nhìn bên ngoài là loại nhân vật hành động (truyện cổ tích). Nhân vật được chú trọng miêu tả từ điểm nhìn bên trong là người có nội tâm phong phú (tiểu thuyết dòng ý thức). Các nhà văn hiện đại có xu hướng xoáy sâu vào những nếp gấp tinh vi trong cấu trúc nhân cách của nhân vật. Nhà văn tài năng thường là những người có khả năng phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Tuy nhiên, để cho câu chuyện được sinh động, nhà văn thường kết hợp cả điểm nhìn bên trong và bên ngoài.

*Điểm nhìn đánh giá: Điểm nhìn đánh giá các sự vật hiện tượng, thái độ đánh giá có thể được thể hiện qua lời kể hoặc qua cách ăn nói của nhân vật, cách xưng hô ... có khi tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình (điểm nhìn từ tác giả) nhưng có khi để cho nhân vật tự phát biểu. Điểm nhìn đánh giá có thể bất biến như cách sử dụng định ngữ nghệ thuật của sử thi nhưng cũng có thể thay đổi theo thời gian, theo bước đường tiến bộ hoặc tha hóa của nhân vật. Cách nhìn đời của nhân vật và tác giả có thể trái ngược nhau. Điểm nhìn chủ thể trữ tình và tác giả có thể không trùng nhau.

*Điểm nhìn tu từ: Tu từ là cách lựa chọn, sửa sang từ ngữ cho đúng và hay, đạt hiệu quả cao. Biện pháp tu từ còn phải gắn với cái nhìn độc đáo của tác giả về đối tượng miêu tả. Khái niệm điểm nhìn được diễn đạt bằng nhiều tên gọi khác nhau: nhãn quan, cái nhìn, điểm quan sát, tiêu cự, tiêu điểm, bình diện, vị trí người kể chuyện ...

3.3.  Nghệ thuật tổ chức cốt truyện

3.3.1. Khái lược về cốt truyện trong văn xuôi tự sự

Cốt truyện được coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong văn học. Điều này cho thấy đây là yếu tố hàng đầu của một tác phẩm tự sự, có thể coi như cái khung, cái nền để làm chỗ dựa cho nội dung của tác phẩm đó. Cốt truyện bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, việc thể hiện tính cách nhân vật. Một tác phẩm có cốt truyện hấp dẫn và lôi cuốn sẽ làm cho chủ đề của tác phẩm có sức thuyết phục hơn. Cốt truyện không phải là toàn bộ nội dung tác phẩm, nhưng thông qua những sự kiện và hành động thể hiện qua cốt truyện, tác giả trình bày và giải quyết các xung đột, các mâu thuẫn xã hội một cách nghệ thuật, qua đó tính cách của các nhân vật được hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại giữa chúng, nhằm làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

3.3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện thiếu nhi đương đại

Cốt truyện như một trục chính thu hút, tập trung tất cả mọi yếu tố nghệ thuật khác như nhân vật, hành động, ngôn ngữ … đặc biệt trong các tác phẩm tự sự, cốt truyện luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà văn bởi chính cốt truyện mới là “cái lõi” trong diễn biến của câu chuyện, tạo nên sự lôi cuốn, hấp dẫn đối với người đọc.

*Cốt truyện không chặt chẽ: Là những truyện không có cốt truyện hoặc cốt truyện không tập trung.

*Cốt truyện phiêu lưu: Là một vấn đề khá rộng và phức tạp, cốt truyện căn cứ vào chuyện một nhân vật hoặc một nhóm nhân vật bị bứng ra khỏi vị trí, môi trường quen thuộc để dấn thân vào nơi nguy hiểm, xa lạ, sự phiêu lưu luôn gắn với mạo hiểm.

*Cốt truyện sinh hoạt đời thường: Là cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của các nhà văn, là cảm hứng hiện thực muôn mặt đời thường.

*Cốt truyện cổ tích: Những chi tiết thần kỳ, nhiều câu chuyện dân gian, nội dung các câu truyện cũng xoay quanh những mối quan hệ, những cuộc trò chuyện, hành động của các nhân vật để từ đó đưa ra những bài học giáo dục nhẹ nhàng, thấm thía.

*Cốt truyện tâm lý: Ở những truyện này, chỉ có một vài sự việc, còn lại là cảm nhận, cảm giác, hồi ức, liên tưởng và độc thoại nội tâm của nhân vật.

*Cốt truyện lắp ghép: Thể hiện các vấn đề của cuộc sống hiện lên qua những sự kiện và tình huống chứ không thông qua nhân vật như cốt truyện thông thường. Nhân vật trong tác phẩm có cốt truyện lắp ghép không còn đóng vai trò chính thống nữa. Loạt cốt truyện này được tổ chức bằng các sự kiện diễn ra trong quan hệ đa tuyến. Các sự kiện kết cấu với nhau một cách lỏng lẻo, ít liên quan đến nhau vì giữa chúng không nhất thiết phải có quan hệ nhân quả mà chỉ đơn giản là quan hệ tương đồng mô típ.

*Cốt truyện chương hồi: Là kiểu cốt truyện được tạo thành bởi một loạt các truyện nhưng lại được tách ra bởi những tình tiết, mục đích hoặc hoàn cảnh riêng.

*Cốt truyện trữ tình: Biểu hiện diễn biến của tình cảm, tâm trạng, nội dung đơn giản, dung dị.  Câu chuyện khám phá về cuộc sống xung quanh, là những bài học giáo dục đầy ý nghĩa, bài học về sự cho đi và nhận lại, bài học về tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm.

*Cốt truyện hài hước: Thể hiện cách viết nhẹ nhàng, dí dỏm, hóm hỉnh đã dắt chúng ta đến một khung trời nhỏ bé, một tuổi thơ ngập tràn thương yêu của mình, có vui buồn, tiếc nuối, có những giọt nước mắt, những khoảnh khắc giữa sự sống và cái chết, và cuối cùng là những yêu dấu vô cùng tận. Chất hài hước lan tỏa khắp tác phẩm tạo nên những tiếng cười giòn tan không chỉ với con trẻ mà với cả người lớn chúng ta.

Tiểu kết:

Cốt truyện trong truyện viết cho thiếu nhi là các kiểu cốt truyện có thể giúp nhà văn tự do thể hiện tình cảm, suy tư hoặc quay về với quá khứ của mình mà không cần phải bận tâm nhiều. Những dòng hồi ức miên man có thể không theo đúng trật tự thời gian nhưng lại giúp nhà văn tự do thể hiện cảm xúc về những ký ức tuổi thơ. Cốt truyện thường hấp dẫn trẻ em bởi nó đáp ứng tính tò mò, ưa khám phá những điều mới mẻ. Các nhà văn cũng đã thể hiện những nỗ lực của mình trong việc xây dựng cốt truyện, hình tượng nhân vật trẻ em bằng cách tạo nên những chân dung sống động, gần gũi, gắn bó với đời sống của trẻ em. Bên cạnh đó, nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi đương đại đã được nói tiếng nói của chúng. Dù ngọng nghịu, ngây ngô nhưng lại vô cùng trong sáng, vô tư và chân thật. Sức hấp dẫn của những sáng tác văn học đương đại chính là tạo lập hệ ngôn ngữ riêng dành cho trẻ em, thuộc về trẻ em.

Chương 4

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN THIẾU NHI  ĐƯƠNG ĐẠI

4.1. Thời gian và không gian nghệ thuật

Thời gian và không gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Thời gian và không gian nghệ thuật là hai phương diện không tách rời nhau ở từng tác phẩm. Thời gian và không gian trong các tác phẩm trữ tình cũng như mọi hiện tượng trên thế giới khách quan, khi đi vào nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng tình cảm, được nhào nặn và tái tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo thấm đẫm cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong tác phẩm văn chương, không gian và thời gian có khi xuất hiện với tư cách một hình tượng, có khi xuất hiện với tư cách một thủ pháp nghệ thuật. Không gian và thời gian luôn gắn kết với nhau nên ta nghiên cứu chúng trong sự liên hợp. Sau khi chỉ ra những đặc điểm của không gian và thời gian, chúng ta sẽ nghiên cứu mối quan hệ của chúng với nhau

4.1.1. Thời gian nghệ thuật

4.1.1.1. Quan niệm về thời gian nghệ thuật

Thời gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý qua các tình tiết, các biến đổi có ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới nghệ thuật. Trong tác phẩm nghệ thuật, thời gian hiện thực không trùng khít với thời gian nghệ thuật. Sự không trùng khít này chứng tỏ thời gian nghệ thuật được xây dựng theo cách cảm nhận thời gian của con người. Ý thức về thời gian là ý thức về sự tồn tại của con người. Phát hiện thời gian giúp người ta nhận thức sâu sắc hơn về con người và cuộc sống. Do vậy khi xem xét thời gian nghệ thuật thì điều quan trọng không phải là cách biểu thị về thời gian mà chính là quan niệm, cách hiểu thời gian của tác giả.

4.1.1.1.1. Thời gian hồi vọng

Thời gian quá khứ là nét điển hình trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm “Dĩ vãng bao giờ cũng đẹp nhưng nói về dĩ vãng là một sự khó khăn” và sống với dĩ vãng thì quả không nhẹ nhõm gì. Thời gian quá khứ được tác giả tái hiện lại một cách chân thực, xen vào đó là tình cảm của người con xa quê, là con người từng trải nhớ về thuở ấu thơ của mình.

4.1.1.1.2. Thời gian đan xen giữa quá khứ và hiện tại

Kể về quá khứ là đi tìm thời gian đã mất, tác giả của tự truyện luôn luôn lấy cái nhìn của thời gian hiện tại để soi sáng quá khứ, vì thế thời gian trong tự truyện thường có sự đan xen giữa quá khứ với hiện tại. Qua sự nhớ lại của nhân vật thời gian bị xé nhỏ ra thành những đoạn những mẩu tưởng chừng rời rạc nhưng thực ra lại rất chặt chẽ và hệ thống: Hiện tại và quá khứ được cài vào nhau, xen kẽ nhau, một phần hiện tại bị đẩy lùi về dĩ vãng, một phần dĩ vãng được ném trở lại hiện tại.

4.1.1.1.3. Thời gian chính xác, cụ thể

Qúa khứ trong sáng tác của mỗi nhà văn mang đậm dấu ấn cuộc đời mỗi người, viết về quá khứ ấy từ thời điểm hiện tại mà tác giả đang sống thì việc đan cài thời gian hiện tại với quá khứ cũng là điều dễ hiểu. Việc sử dụng thời gian một cách chính xác, cụ thể đến từng chi tiết tạo cho tác phẩm tính chân thực và tính thuyết phục cao. Điều này khiến cho người đọc có cảm giác như đang được nghe nhà văn kể lại cuộc đời mình.

4.1.2. Không gian nghệ thuật

4.1.2.1. Quan niệm về không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Nếu như mọi vật trong thế giới đều tồn tại trong không gian ba chiều: cao, rộng, xa và chiều thời gian, thì không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó. Nhưng không gian nghệ thuật có điểm đặc biệt. Bản thân người kể chuyện hay nhà thơ trữ tình cũng nhìn sự vật trong một khoảng cách, góc nhìn nhất định. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Không gian nghệ thuật là mô hình thế giới của tác giả cụ thể, được biểu hiện bằng ngôn ngữ của các biểu tượng không gian. Ngôn ngữ này tự nó ít tính cá thể và phần lớn là thuộc về thời đại, xã hội và các nhóm nghệ sĩ khác nhau, nhưng cái điều mà nghệ sĩ nói bằng ngôn ngữ ấy thì lại khác – đó là mô hình thế giới riêng. Không gian nghệ thuật là một hiện tượng khép kín như không gian trò chơi.

4.1.2.2. Cấu trúc không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm là sự mô hình hóa các mối liên hệ về thời gian, xã hội, đạo đức của bức tranh thế giới thể hiện quan niệm về trật tự thế giới và sự lựa chọn của nhà văn.

Không gian gia đình đầm ấm, thân thương: Tự truyện viết cho thiếu nhi có đặc điểm là gắn với tuổi thơ của tác giả nên không gian nghệ thuật trong tác phẩm cũng gắn liền với không gian sống của tác giả, đó là không gian gia đình, không gian làng quê, không gian trường học.

Không gian đồ vật: Những gì gắn bó khi tuổi thơ còn nhỏ sẽ để lại những ấn tượng không bao giờ phai mờ trong ký ức của mỗi con người. Các tác giả khi viết về thế giới đồ vật gắn với không gian sống của tuổi thơ ấu bao giờ cũng viết bằng một giọng văn đầy âu yếm, nâng niu và trân trọng. Đôi mắt trẻ thơ nhìn đồ vặt trong nhà bằng cái nhìn ngây thơ trong sáng, đầy trìu mến và không gian ấy còn đọng mãi trong ký ức trẻ thơ.

Không gian sân vườn: Tuổi thơ không chỉ gắn bó với những đồ vật trong nhà mà còn gắn liền với sân vườn. Khoảng sân nhỏ và những khu vườn xanh tốt là nơi đã gắn liền với biết bao kỷ niệm vui buồn của tuổi thơ.

4.2. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật

4.2.1. Ngôn ngữ trần thuật

Ngôn ngữ là yếu tố hàng đầu, có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Ngôn ngữ là chất liệu để xây dựng một tác phẩm văn học, là công cụ giao tiếp giữa người với người, vừa là phương tiện để con người bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thể hiện tính cách và bản chất một cách chân thực nhất. Ngôn ngữ trần thuật chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu cá tính của tác giả. Ngôn ngữ trần thuật có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình tượng tác phẩm, thể hiện tư tưởng nội dung tư tưởng nội dung của tác phẩm. Bởi vậy, trong sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà văn luôn quan tâm lựa chọn ngôn ngữ trần thuật để tạo lập một phong cách ngôn ngữ riêng cho các tác phẩm của mình.

4.2.1.1. Ngôn ngữ trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh

* Ngôn ngữ đời sống: Trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh cũng xuất hiện khá nhiều thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ đã một lần nữa minh họa trong ngôn ngữ mang tính đời sống trong tác phẩm của nhà văn. Ngôn từ phong phú, cách sử dụng hiệu quả đã khiến cho tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh có sức hút mạnh mẽ, các nhân vật không chỉ còn là nhân vật trong tác phẩm, sống trong trang sách nữa mà trở nên chân thật như con người ngoài đời thực. Điều đó chứng tỏ vốn từ giàu có và tài năng của một nhà văn lớn.

4.2.1.2. Ngôn ngữ trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần

* Ngôn ngữ Nam Trung Bộ: Nguyễn Ngọc Thuần đã sử dụng đa dạng, phong phú các từ loại mang đậm hơi thở miền Nam Trung Bộ. Từ danh từ, động từ, tính từ đến đại từ xưng hô đều được nhà văn thụ hưởng trực tiếp từ những ngôn ngữ thường nhật của người dân nơi đây. Có thể thấy, việc sử dụng ngôn ngữ ấy vào sáng tạo văn chương không làm nhà văn hiện lên với tư cách như một nhà khảo cứu văn hóa mà bằng thế giới nghệ thuật ngôn từ của mình, Nguyễn Ngọc Thuần đã đánh thức trong tâm hồn độc giả trở về với giá trị văn hóa Việt Nam qua nghệ thuật giao tiếp và sử dụng ngôn từ.

* Ngôn ngữ trần thuật đậm chất dân gian: Thế giới ngôn từ của Nguyễn Ngọc Thuần như một bản đàn có khả năng lách sâu vào cảm giác người đọc, chạm đến chỗ sâu nhất trong tâm hồn mỗi con người, đánh thức tình cảm huyết thống thiêng liêng trong tâm thức người Việt. Chính những ngôn ngữ cổ tích ấy là cội nguồn để nhà văn có được những tuyệt phẩm hút hồn độc giả. Hệ thống những từ thông dụng trong truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyền thuyết được Nguyễn Ngọc Thuần dùng với mật độ dày đặc. Nó giống như những mảng sáng tinh khôi, không chỉ đại diện cho tiếng nói của thiếu nhi Việt mà còn là tiếng hồn của cả dân tộc Việt.

* Ngôn ngữ đối thoại: Ngôn ngữ đối thoại trong truyện của Nguyễn Ngọc Thuần là ngôn ngữ mang đậm chất trẻ thơ vừa dí dỏm, tinh nghịch nhưng cũng vừa sâu lắng, nhẹ nhàng. Không hề có những lời lẽ xung đột kịch tính, gay gắt mà chủ yếu là những lời chia sẻ tâm tình, là những lời an ủi, động viên, khích lệ và có chút nhắc nhở nhẹ nhàng, không có những lời trịnh thượng, áp đặt hoặc mang  tính giáo huấn năng nề đối với các em.

*Ngôn ngữ độc thoại nội tâm: Trong các tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần, ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật xuất hiện ở hình thức trực tiếp thể hiện nội tâm với hàng loạt các từ như: “em cứ nghĩ, em hay nghĩ, em tự hỏi, em tưởng tượng ...”Cậu bé trong truyện Một thiên nằm mộng lúc nào cũng bay bổng theo những giấc mơ hằng đêm. Đây cũng chính là thủ pháp nghệ thuật đắc địa được Nguyễn Ngọc Thuần sử dụng để gợi mở tâm hồn nhân vật, giúp độc giả dễ dàng hơn trong việc nắm bắt tâm lý nhân vật.

4.2.2. Giọng điệu trần thuật

Đối với tác phẩm tự sự, giọng điệu trần thuật cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Đó là một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của tác phẩm tự sự, cũng là thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của người nghệ sỹ. Giọng điệu là phương tiện để người kể chuyện đi sâu phản ánh bức tranh hiện thực đời sống của con người. Ngoài ra, giọng điệu còn mang đậm cá tính sáng tạo của tác giả. Vì vậy, mỗi nhà văn luôn nói bằng giọng điệu riêng của mình. Tìm được giọng điệu phù hợp sẽ giúp cho nhà văn kể chuyện hấp dẫn hơn, thể hiện sâu sắc hơn tư tưởng tác phẩm.

4.2.2.1. Giọng điệu trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh

* Giọng điệu hài hước: Nguyễn Nhật Ánh có một giọng riêng làm nên phong cách. Đó là giọng dí dỏm, hài hước. Ở bất cứ truyện nào, người đọc cũng dễ nhận ra chất “humour – trẻ - con” mà nếu không hóa thân, không một người lớn nào có thể “nhại giọng”. Tác giả sử dụng rất nhiều yếu tố để tạo nên giọng điệu hài hước cho tác phẩm như cách đặt tên nhân vật, đồ vật, tên các loại bùa chú, các loại sách hay môn học ở thế giới phù thủy trong Chuyện xứ LangBiang; cách sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt, đặt câu, cách nhìn nhận vấn đề hoặc tạo tình huống ... tất cả tạo nên không khí vui vẻ cho các tác phẩm của nhà văn.

*Giọng điệu triết lý: Giọng điệu triết lý, hồn nhiên cũng được Nguyễn Nhật Ánh thể hiện rất thành công, có khi đó là giọng điệu khoa trương, cường điệu, giọng điệu này được tác giả sử dụng khi miêu tả thái độ cường điệu hóa thành tích của nhân vật. Nhưng ngay cả khi giọng văn mang tính chất chiêm nghiệm, triết lý thì người đọc cũng không hề thấy khô khan, cứng nhắc mà ngược lại vẫn rất nhẹ nhàng, thấm thía bởi những đúc rút ấy thường được bật ra trong những tình huống thú vị.

4.2.2.2. Giọng điệu trong truyện thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần

Viết cho thiếu nhi Nguyễn Ngọc Thuần đã tìm cho mình được giọng điệu trần thuật riêng, hấp dẫn và mang đến cho người đọc cảm giác ấm áp, dễ chịu.

*Giọng điệu gần gũi thân thương: Giọng kể gần gũi, thân thương đã góp phần làm cho những câu chuyện của Nguyễn Ngọc Thuần luôn nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người, nhận được sự cảm thông, chia sẻ của độc giả dù đó là những chuyện buồn, thậm chí là khi tác giả viết về cái chết. Với giọng kể này, nhà văn đã tạo ra được một phong cách rất riêng – phong cách Nguyễn Ngọc Thuần không lẫn được với bất cứ ai.

*Giọng điệu trữ tình trong trẻo: Nguyễn Ngọc Thuần đã chọn giọng văn phù hợp đó là giọng trữ tình trong trẻo. Nguyễn Ngọc Thuần đã mang đến cho người đọc những trang văn giàu cảm xúc và đậm chất thơ, với giọng điệu trữ tình trong trẻo. Đồng thời với việc đa dạng hóa giọng kể, ngôn ngữ trong các truyện, Nguyễn Ngọc Thuần không chỉ thể hiện được tài năng và sức sáng tạo không ngừng mà còn bộc lộ khả năng phân thân của anh. Đó cũng chính là một cách để anh có thể gián tiếp thể hiện được những quan niệm, suy nghĩ của mình về cuộc đời, về nghệ thuật.  

Tiểu kết:

Khái niệm điểm nhìn được diễn đạt bằng nhiều tên gọi khác nhau: nhãn quan, cái nhìn, điểm quan sát, tiêu cự, tiêu điểm, bình diện, vị trí người kể chuyện ... Điểm nhìn nảy sinh trong mối quan hệ giữa người kể chuyện và nội dung được kể. Giọng điệu là linh hồn của ngôn ngữ truyện kể, có nhiều quan điểm khác nhau về giọng điệu nhưng hầu hết đều thống nhất: giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư tương, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên dùng từ, sắc điệu, tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Mỗi nhà văn đều có phong cách và ngôn ngữ, giọng điệu riêng.

Nguyễn Nhật Ánh rất tinh tế khi sử dụng trường từ vựng rất đặc trưng cho thế giới trẻ thơ, nhà văn không chỉ thể hiện khả năng quan sát tinh tế khi xâm nhập vào thế giới của trẻ thơ mà còn thể hiện khả năng huy động và sử dụng một cách thuần thục, nhạy bén vốn từ ngữ phong phú ấy.

Truyện thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần chủ yếu được trần thuật từ điểm nhìn nhân vật. Người kể chuyện cũng là người trong cuộc, trực tiếp chứng kiến các sự kiện, nhập thân vào hoàn cảnh để mô tả, phân tích, giải thích, ghi nhận và bày tỏ thái độ, cảm nhận, suy nghĩ. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện của Nguyễn Ngọc Thuần là sự đan xen giữa cổ tích và hiện đại tạo nên sự bay bổng và quyến rũ, người đọc có thể tìm thấy chất cổ tích kỳ ảo hóa các sự kiện thông qua con mắt của trẻ thơ và đó là điều tốt đẹp, nó hiện thực hóa những ước mơ, thần tiên hóa cái tốt.

KẾT LUẬN

  1. Khảo sát thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại một cách tổng quát, có thể khẳng định mảng văn học này đã bước phát triển đáng kể và có sự đổi mới so với giai đoạn trước. Tuy vậy, sự đổi mới không phải hoàn toàn đột biến mà có quá trình chuẩn bị âm thầm từ trong nội lực. Điều đó được thể hiện rõ qua hai giai đoạn phát triển trước và sau Đại hội Đảng VI. Mặt khác, đổi mới còn bao hàm cả yếu tố kế thừa. Truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại đã được phát triển trên cái nền của những thành tựu mà truyện thiếu nhi giai đoạn 1945-1975; 1975-1985 đã đạt được. Vừa kế thừa những tinh hoa, vừa vượt lên những cái ấu trĩ, đơn giản để tạo nên một mặt bằng mới, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Trong sự tìm tòi một hướng đi mới, truyện viết cho thiếu nhi không còn khuôn vào một số đề tài như trước mà đã mở ra khai thác, tiếp cận đời sống trẻ em đa dạng, toàn diện và chân thực. Mối quan hệ giữa trẻ em với gia đình được nhìn nhận là mối quan hệ sâu sắc, ảnh hưởng nhiều nhất tới nhân cách các em. Từ mối quan hệ gia đình, mở rộng ra những mối quan hệ khác, ở bề rộng là quan hệ với nhà trường và cuộc sống xung quanh; ở chiều sâu là quan hệ với đời sống văn hóa và lịch sử của dân tộc. Có thể nói, truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại đã hòa nhập trong sự vận động, đổi mới chung của văn học, góp phần tạo nên diện mạo mới của văn xuôi Việt Nam thế kỷ này.
  2. Trong hành trình gần một thế kỷ, Văn học thiếu nhi Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu. Truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đã tái hiện khá phong phú và toàn diện đời sống trẻ em qua các thời kỳ lịch sử. Ở mỗi giai đoạn, diện mạo nhân vật trẻ em lại có những nét vẻ khác nhau, một mặt tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, sự tác động của văn hóa – xã hội cũng như bối cảnh văn học. Mặt khác nó cũng chịu sự chi phối bởi mục đích sáng tác, quan niệm của người viết. Nhận diện Văn học thiếu nhi trên tiến trình phát triển cũng chính là quá trình “phục dựng” hình tượng trẻ em qua các chặng đường lịch sử. Qua mỗi sáng tác truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại, nhân vật trẻ em đã in lên trên nó hình ảnh của cả một dân tộc, một nền văn hóa và những quan niệm xã hội về trẻ thơ. Trẻ em không chỉ đơn thuần là một hình tượng trong tác phẩm mà còn là hạt nhân ẩn chứa những mã nghệ thuật cần được khai mở.
  3. Điều dễ nhận thấy ở các nhân vật trẻ em trong truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại là thiên về nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức, nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi trong chiến đấu. Nhân vật công dân gương mẫu trong đời sống đến nhân vật như tấm gương. Sự đa dạng về các kiểu loại nhân vật cùng với những quan niệm mới về cách thể hiện hình tượng trẻ em đã  mang đến cho truyện thiếu nhi đương đại những nét mới, trẻ trung tươi tắn. Ở chặng đầu, nhân vật trẻ em vẫn chưa thực sự có nhiều đổi mới mặc dù trong sáng tác các nhà văn đã bắt đầu có ý thức cách tân hình tượng nhân vật. Điều này có thể nhận thấy ở kiểu nhân vật. Càng về sau, sự thể hiện nhân vật trẻ em càng có nhiều chuyển biến. Nét nổi bật là đổi mới quan niệm về trẻ em, từ chỗ nhà văn chỉ quan tâm tới những cái cần đưa đến cho trẻ, đánh giá các em theo những tiêu cí áp đặt của người lớn tới quan niệm trẻ em là trung tâm của những tìm tòi và khám phá là sự thay đổi căn bản trong sáng tác cho thiếu nhi. Những tiến bộ trong nhận thức về trẻ em do những thành quả về tâm lý học, giáo dục hcoj và không khí đổi mới chung của đất nước đem lại ngày càng được phát huy, tạo nên sự gần gũi giữa nhà văn với bạn đọc, giữa nhà văn với hiện thực đời sống trẻ em. Trong mỗi thời kỳ, tình hình và yêu cầu của cuộc sống lại đặt ra cho người viết những vấn đề mới mẻ, nhưng dựng lên hình tượng nhân vật trẻ em như truyện viết cho thiếu nhi đương đại là bước cố gắng rất lớn của các nhà văn để cho văn học có thể theo kịp cuộc sống, thật sự là món ăn tinh thần đối với lứa tuổi thơ. Sự đổi mới của truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại còn thể hiện ở nhiều phương diện khác nhưng về cơ bản đổi mới quan niệm về trẻ em là cốt lõi nhất của quá trình đổi mới, tạo nên diện mạo mới của truyện thiếu nhi giai đoạn này.
  4. Qúa trình đổi mới của truyện thiếu nhi Việt Nam đương đại còn thể hiện ở sự gia tăng các thể loại mới, ở tính đa dạng của giọng điệu, ngôn ngữ, tự truyện. Truyện cổ tích hiện đại và truyện ngắn xuất hiện đậm đặc với những thành tựu đáng kể, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng và diện mạo mới của truyện. Sự thể hiện nhân vật trẻ em cho thấy một thực tế, truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam ngày càng có xu hướng tạo lập nhân vật gần với đời sống và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, nhân vật trẻ em có những đặc thù riêng, thẩm mỹ riêng. Thể hiện cá tính nhân vật cùng với nhu cầu tiếp cận đời sống đa dạng, đa chiều tạo nên tính chất đa giọng điệu của truyện viết cho thiếu nhi giai đoạn này: giọng báo chí, thông tấn; giọng trữ tình; giọng tinh nghịch, hóm hỉnh ... đó cũng là một bằng chứng chứng minh cho sự trưởng thành và phát triển của truyện nói riêng và Truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam nói chung.
  5. Truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại tuy đã có những thành tựu nhất định xong người đọc vẫn còn cảm thấy thiếu vắng những tác phẩm mà ở đó, nhà văn thể hiện sự tung hoành của trí tưởng tượng. Ai cũng biết yếu tố tưởng tượng vô cùng cần thiết đối với văn học thiếu nhi. Một tác phẩm viết cho trẻ em không chỉ để cho trẻ em thích thú mà còn phải kích thích ở các em những khát vọng và niềm tin. Không chỉ là tưởng tượng thuần túy, tưởng tượng trong tư duy hiện thực, gắn bó sâu sắc với hiện thực, dựa trên sự chiêm nghiệm của nhà văn về cuộc sống mà còn là tưởng tượng có tính chất dự cảm, dự báo về tương lai. Văn học viết cho trẻ em phải đánh thức được khả năng rung động sâu sắc của tâm hồn trẻ em, hình thành ở các em niềm tin gắn với những giá trị thẩm mĩ và vẻ đẹp, để từ vấn đề trẻ em có thể nâng lên tầm tư tưởng, có ý nghĩa nhân sinh, nhân loại. Cho dù nhà văn có viết về những bất công và hiện thực đen tối của xã hội, thì cuối cùng cũng phải đánh thức trong tâm hồn tuổi thơ những giá trị nhân văn cao cả. Những tác phẩm nổi tiếng trên thế giới như Chú bé hoàng tử của A.S.Exupery, Tôm Xoyơ, Hoàng tử và chú bé nghèo khổ của Martwen, Gulivơ du ký của G.Xuyp ...vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, kỳ ảo, vừa đậm tính nhân văn đã tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ và giá trị trường tồn với thời gian. Đó mãi mãi là những gợi ý bổ ích đối với các nhà văn viết cho thiếu nhi chúng ta.

Nghiên cứu Thi pháp truyện viết cho thiếu nhi Việt Nam đương đại nói riêng và văn học thiếu nhi nói chung là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có nhiều thời gian, nhiều tâm sức và là công việc của nhiều người. Tác giả luận án không coi đây là cách hiểu duy nhất, càng không phải là cách hiểu đúng nhất về truyện viết cho thiếu nhi, nhưng dù sao đây cũng là những điều tâm đắc của người viết luận án được tích lũy trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Hy vọng sau luận án, chúng tôi vẫn còn tiếp tục nghiên cứu về mảng văn học lý thú này, không chỉ riêng truyện mà còn ở nhiều hiện tượng Văn học thiếu nhi khác.