Thực trạng về công tác y tế trường học và vệ sinh an toàn thực phẩm

Một nghiên cứu mô tả cắt ngang điều tra trên 420 người chế biến thực phẩm tại bếp ăn bán trú tất cả các trường học trên địa bàn thành phố Thanh Hóa về thực hành an toàn vệ sinh thực phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ người chế biến thực phẩm (CBTP) đạt yêu cầu thực hành chung về an toàn vệ sinh thực phẩm là 71,4%. Trong đó, về thực hành vệ sinh cá nhân: 97,9% người chế biến thực phẩm để móng tay sạch sẽ, cắt ngắn, tỉ lệ người sử dụng mũ chụp tóc, khẩu trang, tạp dề lần lượt với 81,7%; 76,4%; 82,6%. Có 13,3% người chế biến thực phẩm vẫn dùng tay trực tiếp để bốc chia thức ăn chín. Về thực hành bảo quản thực phẩm (BQTP): trên 90% dụng cụ chứa đựng thực phẩm không thôi nhiễm, không thủng, không gỉ sét và có nắp đậy kín, dễ chùi rửa, trên 90% kho thực phẩm chắc chắn, an toàn, thông thoáng, dễ vệ sinh. Có 80% số cơ sở đủ giá, kệ bảo quản làm bằng các vật liệu chắc chắn, hợp vệ sinh. Về thực hành chế biến, vận chuyển và phân phối thực phẩm: 86,2% người chế biến thực phẩm sơ chế thực phẩm trên mặt bàn cách mặt đất ≥ 60cm, trên 91% người chế biến thực phẩm tuân thủ bảo hộ lao động khi vận chuyển.


Từ khóa: Thực hành an toàn vệ sinh thực phẩm, bếp ăn bán trú trong các trường học, thành phố Thanh Hóa, năm 2020.

Thực hành an toàn vệ sinh thực phẩm, bếp ăn bán trú trong các trường học, thành phố Thanh Hóa, năm 2020

1. Bộ Y tế - Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thông tư liên tịch số 13/2016/TTLT-BGDĐT-BYT về công tác y tế trường học. 2. Bộ Y tế - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011). Thông tư liên tịch số 18/2011/TTLT-BGDĐT-BYT về đánh giá công tác y tế tại các trường học. 3. Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Thanh Hóa. Báo Cáo Số Liệu Điều Tra Cơ Bản Các Cơ Sở Sản Xuất, Chế Biến, Kinh Doanh Thực Phẩm Trên Địa Bàn Tỉnh Thanh Hóa 2017. 4. Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm Thanh Hóa. Báo Cáo Đánh Giá Công Tác Quản Lý, Điều Kiện Đảm Bảo An Toàn Thực Phẩm Bếp Ăn Tập Thể Trường Học Năm 2019. 5. Chính Phủ (2017). Báo cáo số 211/BC-CP ngày 18 tháng 5 năm 2017 về tình hình thực thi chính sách, pháp luật về quản lý an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 – 2016. 6. Trịnh Văn Quyết. Thực trạng an toàn thực phẩm tại các bếp ăn tập thể trường mầm non công lập tỉnh Lâm Đồng năm 2013. Luận văn bác sỹ chuyên khóa 2, Đại học Y Hà Nội. 7. Lê Đức Thọ, Nguyễn Thùy Dương, Đỗ An Thắng. Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về An toàn thực phẩm của người quản lý, người chế biến và điều kiện An toàn thực phẩm tại Bếp ăn tập thể các trường mầm non khu vực nội thành Hà Nội năm 2011. Tạp chí Y tế công cộng. 10-15. 8. Phạm Thị Mỹ Hạnh. Thực trạng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tại bếp ăn các trường tiểu học bán trú trên địa bàn tỉnh Thái Bình, năm 2011. Tạp chí y học thực hành. 64-68. 9. Phạm Vân Thành, Đỗ Mạnh Hùng. Thực trạng quy mô, các hoạt động bảo đảm An toàn thực phẩm tại bếp ăn tập thể các trường mầm non trên địa bàn tỉnh Hưng Yên năm 2012. Tạp chí Y học thực hành. 15-20. 10. Trương Quốc Khanh (2001). Bước đầu khảo sát thực trạng các bếp ăn tập thể tại các trường mầm non và tiểu học bán trú ở thành phố Đà Nẵng năm 2001. Kỷ yếu hội nghị khoa học Vệ sinh an toàn thực phẩm. 315-323.

Trong số 4.538 trường học trên có 3.736 trường khối mầm non, 535 trường tiểu học, 200 trường trung học cơ sở và 67 trường trung học phổ thông. Số trường tự tổ chức nấu ăn chiếm 87%. 484 trường còn lại liên kết ký hợp đồng với nhà thầu và 87 trường ký hợp đồng cung cấp suất ăn đưa từ bên ngoài vào. Theo đánh giá của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm thành phố, trong những năm qua, công tác bảo đảm ATTP tại các bếp ăn tập thể trường học đã được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo, phối hợp quản lý chặt chẽ nên điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tại các bếp ăn đã được đầu tư bài bản, hiện đại hơn. Nhận thức và kỹ năng thực hành ATTP của người chế biến tại bếp ăn tập thể cũng được nâng cao.

Tuy nhiên, theo bà Lê Thị Hằng, đại diện Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm thành phố Hà Nội thì vấn đề ATTP tại các bếp ăn phục vụ các trường học vẫn còn nhiều hạn chế. Nguồn gốc thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ; một số nhân viên trực tiếp tham gia chế biến hoặc người phục vụ còn thiếu ý thức trong thực hành ATTP. Tại nhiều bếp ăn, các dụng cụ đựng chất thải không có nắp đậy, không được vận chuyển thu dọn hằng ngày. Tình trạng ngộ độc vẫn xảy ra tại bếp ăn tập thể trường học. Theo thống kê, từ năm 2010 đến 2021, trong tổng số 27 vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn Hà Nội thì có tới 17 vụ ngộ độc tại bếp ăn tập thể và 8 vụ tại bếp ăn tập thể trường học. 

Trước thực tế này, trong năm 2022 và 2023, Sở Y tế Hà Nội xây dựng kế hoạch mô hình kiểm soát ATTP tại 100% bếp ăn tập thể của 215 trường tiểu học thuộc 10 quận, huyện gồm: Đống Đa, Hoàn Kiếm, Nam Từ Liêm, Thanh Xuân, Long Biên, Ba Vì, Đông Anh, Đan Phượng, Phúc Thọ, Quốc Oai. Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội Vũ Cao Cương cho biết, triển khai mô hình này, ngành chức năng sẽ tổ chức, triển khai, giám sát, tư vấn công tác bảo đảm ATTP đối với bếp ăn tập thể trường tiểu học theo các quy định của pháp luật (có sổ theo dõi kết quả kiểm tra của từng trường). 

Trong đó sẽ tập trung vào nội dung quan trọng như: kiểm soát  nguồn gốc nguyên liệu, có sổ ghi chép nguồn gốc thực phẩm. Nguồn gốc thực phẩm phải lấy tại các cơ sở có giấy đăng ký sản xuất, kinh doanh thực phẩm, được cơ quan quản lý chuyên ngành kiểm soát về ATTP... Địa chỉ nguồn gốc nguyên liệu chế biến thực phẩm niêm yết công khai tại trường. Đơn vị sẽ xét nghiệm nhanh 100% cơ sở kiểm tra và lấy mẫu gửi xét nghiệm khi cần thiết (đối với một số thực phẩm xét nghiệm nhanh dương tính và một số thực phẩm không rõ nguồn gốc nghi ngờ không bảo đảm ATTP). Việc kiểm tra giám sát công tác bảo đảm ATTP tại bếp ăn tập thể trường tiểu học được triển khai đột xuất hoặc định kỳ theo tháng, quý, năm (tối thiểu 4 lần/năm/trường). 

Với mô hình này, Sở Y tế Hà Nội đặt ra mục tiêu, 100% bếp ăn tập thể trường tiểu học được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, ký cam kết trách nhiệm bảo đảm ATTP. 100% người lãnh đạo quản lý, người chế biến, người kinh doanh, cô nuôi tại các trường tiểu học xây dựng mô hình được bồi dưỡng kiến thức về ATTP; 100% bếp ăn tập thể trường tiểu học được kiểm tra, giám sát theo quy định; 100% bếp ăn tập thể tại các trường thành lập tổ tự giám sát ATTP, có phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên. Một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch này là thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn sự cố về ATTP, bảo đảm 100% các vụ ngộ độc được điều tra xử lý kịp thời, không để tử vong do ngộ độc thực phẩm. Có thể truy xuất nguồn gốc gây ra ngộ độc thực phẩm, cảnh báo kịp thời nguy cơ ô nhiễm của các thực phẩm nghi ngờ. Việc triển khai mô hình này tại các trường tiểu học ở 10 quận, huyện sẽ là cơ sở để nhân rộng tại các bếp ăn tập thể trường học trên địa bàn.

Phó Cục trưởng ATTP (Bộ Y tế) Nguyễn Hùng Long đánh giá, việc kiểm tra kiểm soát ATTP tại bếp ăn tập thể trường tiểu học cần sự phối hợp chặt chẽ giữa hai ngành y tế và giáo dục cũng như toàn xã hội. Việc thành phố Hà Nội triển khai mô hình kiểm soát ATTP tại bếp ăn trường học vào thời điểm này là rất phù hợp, nhất là sau khi học sinh khối mầm non, tiểu học trở lại trường sau thời gian dài ở nhà học trực tuyến do dịch Covid-19. Thành phố cần nỗ lực nhiều hơn để tiếp tục là một trong những địa phương đi đầu trong việc bảo đảm vệ sinh ATTP.

Ngày 19.3, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã có công văn gửi UBND các tỉnh, thành phố về việc tăng cường chỉ đạo công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục.

Văn bản nêu rõ thời gian qua, công tác bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục đã được chỉ đạo tổ chức thực hiện theo quy định.

Tuy nhiên, tại một số cơ sở giáo dục vẫn để xảy ra tình trạng học sinh bị ngộ độc thực phẩm, nhiễm ký sinh trùng, các bệnh lây qua đường tiêu hóa, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý của học sinh, uy tín của nhà trường, gây lo lắng cho gia đình học sinh và bức xúc trong dư luận xã hội.

Để khắc phục tình trạng trên, Bộ GDĐT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo sở GDĐT phối hợp với sở y tế và các cơ quan liên quan tại địa phương, hướng dẫn, chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường các biện pháp đảm bảo vệ sinh trường học, an toàn thực phẩm.

Trong đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, nhân viên nhà trường, học sinh và cha mẹ học sinh về việc đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm, phòng chống ngộ độc thực phẩm.

Kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc thực phẩm và các khâu: Chế biến, bảo quản, vận chuyển thực phẩm trong các cơ sở giáo dục, tuân thủ quy trình giao nhận, lưu mẫu thực phẩm theo quy định.

Tăng cường vệ sinh trường học để phòng chống các bệnh truyền nhiễm, chủ động kiểm soát, ngăn chặn dịch bệnh trong trường học.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, chính quyền địa phương trong việc giáo dục, hướng dẫn trẻ em, học sinh thực hiện các quy định về an toàn thực phẩm, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, như rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, ăn chín, uống sôi…

Thực trạng về công tác y tế trường học và vệ sinh an toàn thực phẩm
Hình ảnh thực phẩm dùng để chế biến cho trẻ được phụ huynh quay, chụp tại Trường Mầm non Thanh Khương (Bắc Ninh) – An toàn vệ sinh thực phẩm trong trường học Hình ảnh thực phẩm dùng để chế biến cho trẻ được phụ huynh quay, chụp tại Trường Mầm non Thanh Khương (Bắc Ninh). 

Đồng thời, Bộ GDĐT cũng yêu cầu các địa phương tăng cường công tác thanh, kiểm tra, giám sát của ngành giáo dục, ngành y tế, huy động sự tham gia của Ban đại diện cha mẹ học sinh trong việc giám sát công tác vệ sinh trường học.

Phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm về an toàn thực phẩm, điều kiện vệ sinh trong trường học nhằm đảm bảo sức khỏe cho trẻ em, học sinh.

Những ngày qua, hàng nghìn phụ huynh ở huyện Thuận Thành (Bắc Ninh) đã ồ ạt đưa con lên Hà Nội để xét nghiệm sán lợn.

Việc này diễn ra trong bối cảnh trước đó phụ huynh “tố” Trường Mầm non Thanh Khương sử dụng thực phẩm không đảm bảo vệ sinh chế biến cho trẻ.

Đặc biệt, Cty cung cấp thực phẩm của Trường Mầm non Thanh Khương còn cung cấp cho gần 20 trường khác ở huyện Thuận Thành.

Một số trẻ ở các trường trên địa bàn khi đi xét nghiệm và cho kết quả dương tính với sán lợn, đã khiến các phụ huynh khác lo lắng.

Tính từ 12.3 đến nay đã có hơn 200 trẻ/gần 2000 trẻ ở Bắc Ninh có kết quả dương tính với sán lợn.

Năm học 2018 – 2019 vừa bắt đầu, là thời điểm tập trung học sinh tại các trường THCS trên địa bàn huyện về trường THPT Tràm chim.

Do đó công tác VSATTP trường học cũng cần được quan tâm một cách hết sức cần thiết

– Thực phẩm: là những thức ăn, đồ uống của con người dưới dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến; bao gồm cả đồ uống, nhai ngậm và các chất đã được sử dụng trong sản xuất, chế biến thực phẩm.

– Vệ sinh thực phẩm: là mọi điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn và phù hợp của thực phẩm ở mọi khâu thuộc chu trình thực phẩm.

– An toàn thực phẩm: là sự bảo đảm thực phẩm không gây hại cho người tiêu dùng khi nó được chuẩn bị và/hoặc ăn theo mục đích sử dụng.

vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng.

Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.

  • Sự bùng nổ dân số: làm khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, trong đó nguồn nước sạch sử dụng cho sinh hoạt và ăn uống thiếu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, cùng với đô thị hóa nhanh dẫn đến thay đổi thói quen ăn uống của nhân dân, thúc đẩy phát triển dịch vụ ăn uống trên hè phố tràn lan, khó có thể đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực phẩm chế biến ngày càng nhiều, các bếp ăn tập thể gia tăng … là nguy cơ dẩn đến hàng loạt vụ ngộ độc.
  • Ô nhiễm môi trường: sự phát triển của các ngành công nghiệp dẩn đến môi trường ngày càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến vật nuôi và cây trồng. Mức độ thực phẩm bị nhiễm bẩn tăng lên, đặc biệt là các vật nuôi trong ao hồ có chứa nước thải công nghiệp, lượng tồn dư một số kim loại nặng ở các vật nuôi cao.
  • Sự phát triển của khoa học công nghệ: việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới trong chăn nuôi, trồng trọt, sản xuất, chế biến thực phẩm làm cho nguy cơ thực phẩm bị nhiễm bẩn ngày càng tăng do lượng tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất bảo quản trong rau, quả; tồn dư thuốc thú y trong thịt, thực phẩm sử dụng công nghệ gen, sử dụng nhiều hóa chất độc hại, phụ gia không cho phép, cũng như nhiều quy trình không đảm bảo vệ sinh gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát.

Từ những tác nhân trên tạo tiền đề cho những nguyên nhân gây ô nhiễm thực phẩm biểu hiện là những hành vi cẩu thả, thiếu trách nhiệm của bạn có thể gây tội ác không lường trước được.

– Do quá trình chăn nuôi, gieo trồng, sản xuất thực phẩm, lương thực, thực phẩm có nguồn gốc từ gia súc, gia cầm bị bệnh hoặc thủy sản sống ở nguồn nước bị nhiễm bẩn.

– Các loại rau, quả được bón quá nhiều phân hóa học, sử dụng thuốc trừ sâu không cho phép hoặc cho phép nhưng không đúng về liều lượng hay thời gian cách ly. Cây trồng ở vùng đất bị ô nhiễm hoặc tưới phân tươi hay nước thải bẩn. Sử dụng các chất kích thích tăng trưởng, thuốc kháng sinh.

– Do quá trình chế biến không đúng:

+ Quá trình giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm, quá trình thu hái lương thực, rau, quả không theo đúng quy định.

+ Dùng chất phụ gia không đúng quy định của Bộ Y tế để chế biến thực phẩm.

+ Dùng chung dao thớt hoặc để thực phẩm sống với thực phẩm chín.

+ Dùng khăn bẩn để lau dụng cụ ăn uống.

+ Bàn chế biến thực phẩm, bàn ăn hoặc dụng cụ ăn uống nhiễm bẩn. Không rửa tay trước khi chế biến thực phẩm, nhất là khi chuẩn bị thực phẩm cho trẻ em.

+ Người chế biến thực phẩm đang bị bệnh truyền nhiễm, tiêu chảy, đau bụng, nôn, sốt, ho hoặc nhiễm trùng ngoài da.

+ Rửa thực phẩm, dụng cụ ăn uống bằng nước nhiễm bẩn.

+ Nấu thực phẩm chưa chín hoặc không đun lại trước khi ăn.

– Do quá trình sử dụng và bảo quản không đúng

+ Dùng dụng cụ sành sứ, sắt tráng men, nhựa tái sinh … bị nhiễm chất chì để chứa đựng thực phẩm.

+ Để thức ăn qua đêm hoặc bày bán cả ngày ở nhiệt độ thường; thức ăn không được đậy kỹ, để bụi bẩn, các loại côn trùng gặm nhấm, ruồi và các động vật khác tiếp xúc gây ô nhiễm.

+ Do thực phẩm bảo quản không đủ độ lạnh hoặc không đủ độ nóng làm cho vi khuẩn vẫn phát triển.

– Nhiễm độc tiềm ẩn: là sự nhiễm các chất độc hại dưới ngưỡng có thể gây ra các triệu chứng cấp tính, bán cấp tính; có thể bị nhiễm liên tục hoặc không liên tục; có thể sau một thời gian không biết trước sẽ có: ung thư, các rối loạn chức năng không rõ nguyên nhân, vô sinh, quái thai…

– Bệnh mạn tính: là bệnh mắc phải, có biểu hiện phát bệnh lặp lại thường xuyên hoặc theo chu kỳ; có thể do di chứng của ngộ độc cấp hoặc do hậu quả của nhiễm độc tiềm ẩn tới liều gây bệnh; có thể trở thành bệnh khó chữa hoặc không chữa khỏi.

– Bệnh bán cấp tính (ngộ độc thức ăn): các rối loạn tiêu hóa hoặc thần kinh nhẹ, hoặc các triệu chứng cấp tính, có thể tự chữa khỏi hoặc tự khỏi.

– Bệnh cấp tính (ngộ độc thức ăn): các triệu chứng trước đây tương đối điển hình và bệnh nhân cần đến sự can thiệp của bác sĩ.

+ Biểu hiện rối loạn tiêu hóa: nôn, ỉa chảy (gồm cả ỉa ra máu), đau bụng.

+ Biểu hiện rối loạn thần kinh: rối loạn cảm giác, nhức đầu, mệt lả, hôn mê, liệt chi.

+ Các rối loạn chức năng khác: thay đổi huyết áp, bí tiểu…

Thời gian lành bệnh (đến khi hết triệu chứng nhưng bệnh nhân chưa thể sinh hoạt và làm việc một các bình thường).

+ Với người mắc bệnh bán cấp và cấp tính : 02 ngày – 01 tháng

+ Với người mắc bệnh mạn tính: không khỏi hẳn và thỉnh thoảng tái phát.

Thời gian phục hồi sức khỏe (đã có thể sinh hoat và làm việc một cách bình thường): tuỳ theo nguyên nhân, tình trạng sức khỏe và độ tuổi, thường là:

+ Với người bình thường bị mắc bệnh bán cấp và cấp tính: 01 – 04 tuần với người lớn và trẻ độ tuổi học đường: 01 tháng đến vài tháng với trẻ dưới 7tuổi và người già.

+ Với người mắc bệnh mạn tính bị tái phát: 01 – 02 tuần trong trường hợp bệnh tái phát có thể chữa được; không xác định được trong trừơng hợp đã thành bệnh nặng.

Tử vong là hậu quả của ngộ độc cấp rất nặng, ngộ độc cấp không được cứ chữa kịp thời hoặc hậu quả của nhiễm độc tiềm ẩn kéo dài đã dẫn đến bệnh hiểm nghèo không cứu chữa được.

Không loại trừ bất kỳ người nào dù là trẻ em, người lớn, người già yếu, nam hay nữ

– Vệ sinh cá nhân.

– Vệ sinh môi trường.

– Vệ sinh nguyên liệu và nguồn nước sạch.

– Vệ sinh dụng cụ chế biến (dao, thớt, đũa, thìa đã tiêp xúc với thực phẩm sống không để tiếp xúc với thực phẩm chín cho ăn trực tiếp).

– Vệ sinh dụng cụ ăn uống: bát, đĩam tìa, cốc… phải được rửa sạch.

– Kiểm soát cả quá trình chế biến (làm sạch, tránh nhiễm bẩn, tuân thủ chế độ xử lý nhiệt về thời gian và nhiệt độ).

– Khám sức khỏe định kỳ nhằm loại rừ các bệnh lân lan (ghẻ, lở, mụn) và các bệnh truyền nhiễm (lao, tả, thương hàn. lỵ…).

– Giáo dục kiến thức về vệ sinh thực phẩm cho người xử lý thực phẩm, nhưng quan trọng hơn cả là ý thức của họ thực hành các hiểu biết vào suốt quá trình chọn nguyên liệu thực phẩm và chế biến bảo quản thực phẩm.

– Khi phát hiện hoặc nghi ngờ bị ngộ độc thực phẩm, phải đình chỉ việc sử dụng và niêm giữ toàn bộ thức ăn đó lại (kể cả chất nôn, phân, nước tiểu…) để xác minh, báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất đến xử trí kịp thời hoặc đưa người bị ngộ độc đi bệnh viện.

– Vệ sinh, tẩy uế khu vực có chất nôn, phân, nước tiểu của người bị ngộ độc thực phẩm và thực hiện chế độ cách ly nghiêm ngặt đề phòng sự lây lan của dịch bệnh.

– Thường xuyên thực hiện các biện pháp diệt ruồi, nhặng, gián, chuột… và các hướng dẫn vệ sinh phòng chống dịch bệnh theo chỉ đạo của ngành y tế.

  1. Chon thực phẩm an toàn, xanh tươi, rau quả ăn sống phải được ngâm rử bằng nước sạch, quả nên gọt vỏ trước khi ăn. Thực phẩm đông lạnh nếu để tan đá rồi làm đông đá lại là kém an toàn.
  2. Nấu chín kỹ thức ăn hoàn toàn và phải  đảm bảo nhiệt độ trên 70º C
  3. Hãy ăn ngay khi vừa nấu ăn xong, thức ăn càng để lâu càng nguy hiểm
  4. Muốn giữ thức ăn quá 5 tiếng cần phải có độ nóng trên 60º C, hoặc lạnh dưới 10ºC  Thức ăn cho trẻ nhỏ không nên dùng lại.
  5. Các thức ăn chín dùng lại trong 5 tiếng , cần phải đun kỹ
  6. Thức ăn đã được nấu chín có thể bị nhiễm mầm bệnh do tiếp xúc trực tiếp với  thức ăn sống hoặc gián tiếp với các bề mặt bẩn ( dao, thớt .)
  7. Rửa tay sạch khi chế biến thức ăn, nếu bàn tay bị vết thương , hãy băng kỹ vết thương lại trước khi chế biến.
  8. Do thức ăn dễ bị nhiễm khuẩn, nên bất kỳ mặt nào của dụng cụ dùng để chế  biến cũng phải được sạch sẽ, khăn lau bát đĩa cần phải được luộc vối nước sôi và thay thường xuyên trước khi sử dụng lại.
  9. Che đậy thực phẩm để tránh côn trùng và các động vật khác , giữ thực phẩm ở nhiệt độ 75ºC  trong hộp kín, lồng bàn, tủ chén, đó là cách bảo vệ tốt nhất khăn đã dùng che đậy thức ăn chín phãi được giặt sạch sẽ lại trước khi sử dụng.
  10. Sử dụng nguồn nước an toàn, không màu, không mùi, không vị lạ, và không mầm bệnh, hãy đun nước sôi, khi làm đá uồng, đặc biệt cẩn thận với nguồn nước dùng nấu thức ăn cho trẻ nhỏ.

Liên tục các trường học để xảy ra các vụ việc mất an toàn thực phẩm (ATTP) trong những ngày gần đây. Điều này khiến rất nhiều cha mẹ đặt ra câu hỏi và thắc mắc. Vì sao thực phẩm ‘bẩn’ lại có thể dễ dàng lọt vào trong trường học?

Cùng chúng tôi tìm hiểu về việc an toàn vệ sinh thực phẩm trong trường học.

Trong vụ việc ngộ độc thực phẩm tại Trường Mầm non Xuân Nộn (xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, Hà Nội) khiến hơn 200 trẻ mầm non & nhiều giáo viên nhập viện.
Kết quả xét nghiệm từ 13 mẫu thức ăn cho thấy, có 1 mẫu bánh ngọt chứa vi khuẩn Salmonella. Đã gây nhiễm trùng đường ruột, nóng, sốt, đau bụng tiêu chảy…

Loại bánh này do Công ty thực phẩm Bảo An cung cấp trực tiếp cho nhà trường. Tuy nhiên loại bánh này lại do Công ty Cổ phần SX & thương mại Nguyên Cát (ở Phố Và, phường Hạp Lĩnh, thành phố Bắc Ninh) sản xuất.

Điều đáng nói ở đây, sau khi kiểm tra thực tế hoạt động của công ty Nguyên Cát. Các điều kiện sản xuất ở đây hoàn toàn không bảo đảm. Và không phù hợp với tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

Ta thấy rằng, ngay từ khâu đầu vào của thực phẩm đã không rõ ràng nguồn gốc và ô nhiễm, tiêu chí an toàn thực phẩm còn đâu? Tuy nhiên, dưới nhãn mác an toàn thực phẩm của Công ty thực phẩm Bảo An, số lượng bánh nhiễm khuẩn vẫn lọt vào trường một cách dễ dàng & gây ra vụ ngộ độc kinh hoàng cho hàng trăm trẻ em.

“Trách nhiệm thuộc về ai ?” Câu hỏi này luôn được đặt ra mỗi khi xảy ra vụ việc mất ATTP. Tất nhiên tại các trường học thì trách nhiệm sẽ thuộc về người đứng đầu đơn vị là hiệu trưởng.

Có một điều đáng nói là, cứ mỗi khi xảy ra ngộ độc thực phẩm ở trường học. Các cơ quan của ngành giáo dục đều khẳng định “sẽ siết chặt quản lý, tăng cường kiểm tra trực tiếp tại các trường”.

Trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo quy trình bảo đảm an toàn, vệ sinh an toàn thực phẩm của các nhà bếp & cơ sở sản xuất thức ăn để cung cấp cho nhà trường

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu khẳng định này sẽ duy trì trong bao lâu. Hay khi sự việc lắng xuống, việc “siết chặt quản lý, tăng cường kiểm tra trực tiếp” cũng sẽ lại bị lãng quên.

Nhất là khi thực tế, công tác kiểm tra tổ chức bán – nội trú cho học sinh vẫn được tiến hành & luôn được kết luận là “đúng quy trình, đảm bảo chất lượng”.

Biên bản kiểm tra an toàn thực phẩm trường học

Biên bản kiểm tra an toàn thực phẩm trường học là văn bản được cá nhân, nhóm cá nhân, tổ chức sử dụng để ghi nhận sự việc kiểm tra an toàn thực phẩm trường học của những chủ thể có thẩm quyền trong một thời gian xác định nào đó.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

—–o0o—–

…………., ngày… tháng…. năm…..

BIÊN BẢN KIỂM TRA AN TOÀN THỰC PHẨM TRƯỜNG HỌC

(Số:………../BB-……..)

 – Căn cứ Luật an toàn thực phẩm năm 2010;

– Căn cứ…;

– Căn cứ tình hình thực tế.

Hôm nay, vào hồi ….giờ ….phút, ngày…… tháng….. năm……, tại……………………. nhằm thực hiện………………. về việc kiểm tra an toàn thực phẩm trường học………… chúng tôi gồm:

1./Ông…………………………                       Sinh năm:…………

Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân số:………………………. Do CA…………….. Cấp ngày…./…../…..

Địa chỉ thường trú:…………………………………………………………

Hiện tại cư trú tại:………………………………………………………….

Số điện thoại liên hệ:………………………….

Chức vụ:…………………………………..

2./Bà………………………………….                             Sinh năm:…………

Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân số:………………………. Do CA…………….. Cấp ngày…./…../…..

Địa chỉ thường trú:…………………………………………………………

Hiện tại cư trú tại:………………………………………………………….

Số điện thoại liên hệ:………………………….

Chức vụ:…………………………………..

Thành lập…………… kiểm tra an toàn thực phẩm tại……………… trường…………….

Địa chỉ:…………………………………………………………..

Số điện thoại:…………………………….    Số Fax:………….

Đại diện trường:…………………………….. Chức vụ:…………….

Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân số:………………………. Do CA…………….. Cấp ngày…./…../…..

Căn cứ đại diện:…………………………

Với nội dung sau:

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

(Phần này bạn trình bày nội dung kiểm tra an toàn thực phẩm diễn ra tại trường)

Sau quá trình kiểm tra,……… quyết định đánh giá điều kiện an toàn thực phẩm của trường học…………….. như sau:

STT Nội dung đánh giá Đạt Không đạt Ghi chú

(Tùy thuộc vào nội dung đánh giá mà bạn có thể đưa ra những thông tin để tính mức độ đánh giá)

Nội dung khác (nếu có):………………………………………..

Kết luận, kiến nghị và xử lý:

……………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………….

Sau khi đọc lại Biên bản này, các bên tham gia làm việc cùng ký tên đồng ý về nội dung Biên bản này và không có ý kiến gì khác.

Biên bản này được lập thành…. bản, có giá trị pháp lý như nhau, mỗi bên giữ…. bản để…………….

Đại diện trường học(Ký, đóng dấu và ghi rõ họ tên) Chủ thể kiểm tra(Ký, đóng dấu và ghi rõ họ tên)

1/ Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, nhất là ăn bốc. 2/ Ăn chín uống sôi. 3/ Phòng ngộ độc thực phẩm bởi phẩm màu độc hại. Nếu có màu sắc quá lòe loẹt trong thức ăn tuyệt đối không sử dụng 4/ Phòng ngộ độc bởi hóa chất bảo vệ thực vật: Rau, củ, quả tươi, thức ăn sống. Phải được rửa lại nhiều lần với nước pha muối loãng. Sau đó rửa sạch lại với nước sạch. Không sử dụng các loại thực phẩm, rau, quả, củ có dấu hiệu bị dập úng 5/ Phòng ngộ độc thực phẩm bởi có chất độc tự nhiên. Không ăn nấm, củ rau, quả hoang dại nghi có độc. không ăn khoai mì cao sản, măng tươi. Sản phẩm động vật có độc. Như các con vật cóc, cá nóc, con so, cua mảng cầu, mật cá trắm, … 6/ Phòng vi khuẩn sống sót làm thực phẩm biến chất, có hại: Không dùng thực phẩm đóng hộp lon phồng cứng hai đáy hộp, bị gỉ, móp méo. Sữa, nước giải khát trong hộp giấy bị phơi ngoài nắng dù còn hạn sử dụng, phai màu. Nước giải khát, nước đóng chai bị biến màu, đục, có cặn. Khi mở nắp không còn gas (nước có gas). 7/ Phòng vi khuẩn nhân lên trong điều kiện môi trường. Thức ăn chín để quá 4 giờ là không an toàn. Phải luôn giữ thức ăn đã chế biến ở nhiệt độ 60*C nếu ăn sau đó 2-3h. 8/ Phòng ô nhiễm chéo sang thực phẩm chế biến sẵn: thịt quay, thịt luộc, thịt Jambon, thịt pa-tê… Để ăn ngay từ các dụng cụ bán hàng. Dao, thớt, đũa, thìa, que gắp đang chế biến thực phẩm sống. Hoặc chưa được làm sạch hoặc dùng tay bốc thức ăn. 9/ Không mua hàng đóng gói không nhãn mác, thương hiệu, không địa chỉ. Không có ngày sản xuất, không hạn dùng, hết hạn dùng, nhãn hàng in lem nhem.

10/ Tránh ăn ở các quán gần nơi dơ bẩn, không có nước sạch. Hoặc không có tủ kính che đuổi, thức ăn được bán ở lề đường