Tiêu luận thực trạng chính sách tiền tệ việt nam 2011-2022

Những thành tựu đáng ghi nhận

Hình 1 cho thấy, từ năm 2011 đến 2015, lãi suất cho vay tại Việt Nam giảm rất nhanh, xuống gần bằng mức cạnh tranh với các nước phát triển hơn trong khu vực. Tuy nhiên, từ 2015 đến nay, lãi suất cho vay có xu hướng tăng dần, trong khi các nước trong khu vực cơ bản ổn định ở mức thấp và một số nước tiếp tục giảm. Lãi suất giảm nhanh trong thời kỳ 2011-2015 đã giúp nền kinh tế có điều kiện vừa củng cố các nền tảng vĩ mô vừa thúc đẩy tăng trưởng.

Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ có đóng góp quan trọng trong việc ổn định lạm phát tại Việt Nam luôn ở mức dưới 4% trong cả giai đoạn 2016-2020, tỷ giá biến động không đáng kể trong cả thời kỳ 2011-2020, trong khi dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục. Cùng với chính sách tiền tệ, các chính sách đảm bảo an toàn hệ thống cũng được liên tục được nâng cấp tiệm cận các chuẩn mực quốc tế. Điều này giúp củng cố sức mạnh ngành ngân hàng, hạ thấp nợ xấu, tăng cường niềm tin của các nhà đầu tư vào sự ổn định và triển vọng phát triển của Việt Nam.

Những dấu hiệu gần đây trên thế giới và Việt Nam

Những diễn biến gần đây trên thị trường thế giới và ngay cả tại Việt Nam đang đặt ra rất nhiều câu hỏi đối với những nền tảng của chính sách tiền tệ truyền thống.

Thứ nhất, lạm phát không còn là bản chất tiền tệ

Câu nói nổi tiếng của cha đẻ trường phái tiền tệ M. Friedman “lạm phát luôn luôn và bất cứ ở đâu đều mang bản chất tiền tệ” trong những năm gần đây dường như không còn đúng nữa. Nhật Bản đã mất hàng thập kỷ tìm mọi cách để nâng lạm phát lên 2% nhưng luôn thất bại.

Sau cuộc khủng hoảng 2008-2009 và trong đại dịch 2020 vừa qua, hàng loạt quốc gia đã thực hiện các chính sách siêu nới lỏng tiền tệ nhưng hầu như không có tác dụng lên lạm phát.

Nghiên cứu của P. Grauwe và M. Polan năm 2001 [CEPR] trên bộ số liệu 160 nước trong vòng 30 năm đã cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và cung tiền chỉ có ý nghĩa đối với những nước có mức độ lạm phát cao [trên 10%/năm], còn đối với những nước có mức lạm phát thấp hơn 10% thì mối quan hệ này là yếu.

Thứ hai, vòng quay tiền tệ giảm dần

Theo lý thuyết lượng tiền thì M*V = P*Q = GDP danh nghĩa, trong đó M là cung tiền, V là vòng quay tiền tệ, P là mức giá, Q là sản lượng. Lý thuyết này cho rằng, vòng quay tiền tệ cơ bản là ổn định và do đó, nếu tăng cung tiền thì chỉ làm cho mức giá tăng lên mà thôi [tức là lạm phát tăng].

Điều đáng ngạc nhiên đó là vòng quay tiền tệ của hầu hết các nước đều giảm trong hơn 10 năm qua, đặc biệt là tại Việt Nam - vòng quay tiền tệ giảm mạnh nhất. Hiện tượng vòng quay tiền tệ giảm [người dân thích giữ tiền hơn là tiêu dùng] cũng giải thích tại sao cung tiền tăng không tạo ra lạm phát.

Theo công thức: M*V=P*Q, M tăng nhưng V giảm thì kết cục là hầu như không có ảnh hưởng đến lạm phát. Tại sao vòng quay tiền tệ lại giảm trong khi hàng loạt ứng dụng Fintech giúp cho người dân dễ dàng tiêu dùng hơn, dễ dàng tiếp cận dịch vụ ngân hàng hơn vẫn là câu hỏi chưa được trả lời rõ ràng trên phạm vi thế giới.

Thứ ba, nợ chính phủ không làm cho lãi suất tăng mà ngược lại

Hình 3 cho thấy tỷ lệ nợ công so với GDP trên hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương [và thậm chí trên toàn thế giới] đã tăng lên rất nhanh trong hơn 10 năm qua. Theo lý thuyết, việc gia tăng mạnh mẽ nợ công sẽ tạo ra hiệu ứng lấn át [nhà nước cạnh tranh nguồn tiền nhàn rỗi trên thị trường với tư nhân] dẫn đến lãi suất phải tăng cao hoặc lạm phát gia tăng.

Tuy nhiên, trên thực tế, lãi suất không tăng mà còn giảm [Hình 1] và lạm phát trong 10 năm qua tại hầu hết các nước trên thế giới đều ở mức thấp, các nước lo nhiều về giảm phát hơn là lạm phát.

Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Thứ nhất, tác động của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ đã có đóng góp quan trọng trong việc ổn định lạm phát tại Việt Nam luôn ở mức dưới 4% trong cả giai đoạn 2016-2020, tỷ giá biến động không đáng kể trong cả thời kỳ 2011-2020 trong khi dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục.

Nhìn chung, trên toàn thế giới, ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đối với quản lý vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng được đánh giá là khá hạn chế. Ngay cả Giám đốc IMF Kristalina Georgieva trong bài mở đầu buổi hội nghị đầu tiên của bà trên tư cách Giám đốc IMF [2019] đã nói, “cần phải sử dụng chính sách tiền tệ một cách khôn ngoan… và đây là lúc các nước phải để cho chính sách tài khóa thực hiện vai trò trung tâm hơn nữa”.

Trong giai đoạn 20215 - 2020, Ngân hàng Nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực để thực hiện các chính sách giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ kinh tế nhưng kết quả đạt được là khá khiêm tốn. Lạm phát năm 2019 tại Việt Nam [2,8%] còn thấp hơn Trung Quốc [2,9%], nhưng lãi suất cho vay bình quân trên thị trường Trung Quốc thấp hơn Việt Nam tới 3,4 điểm phần trăm.

Lãi suất cho vay của Việt Nam có xu hướng tăng lên từ năm 2015 đến nay. Như vậy, hiệu lực của chính sách tiền tệ như hiện nay là khá yếu trong việc đạt mục đích giảm lãi suất cho vay trên thị trường có lẽ cần vận dụng chính sách tiền tệ một cách “khôn ngoan” hơn như lời Giám đốc IMF.

Thứ hai, nỗi lo lạm phát

Lạm phát được duy trì thấp trong 10 năm qua không thể phủ nhận có vai trò của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, như đã thấy ở trên, xu hướng vòng quay tiền tệ giảm mạnh tại Việt Nam và các nước trên thế giới. Cung tiền hiện nay [trừ khi tăng đột biến] có tác động rất ít đối với lạm phát. Do đó, quá ám ảnh vào mục tiêu lạm phát có thể sẽ hạn chế rất nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế.

Ưu tiên của chính sách tiền tệ nên chuyển từ trọng tâm kiềm chế lạm phát sang hỗ trợ tăng trưởng thông qua giảm lãi suất cho vay một cách thận trọng.

Để hỗ trợ xu hướng này, chính sách tài khóa cũng không nên đặt ra những trần quá cứng mà cần mở rộng tài khóa khi có điều kiện thuận lợi. Các bằng chứng trên thế giới hiện nay cho thấy, mở rộng tài khóa không làm tăng lãi suất mà ngược lại đang có xu hướng làm giảm lãi suất. Điều này đặc biệt thuận lợi ở Việt Nam khi lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm dưới 2,5%/năm và kỳ hạn 5 năm dưới 1,2%/năm.

Thêm vào đó, có một thực tế đang diễn ra ở nước ta đó là trong 10 năm qua, cán cân vãng lai [CA] luôn dương và đang tăng dần. Nguyên lý kinh tế học cho thấy CA = S - I [tiết kiệm trừ đầu tư]. Vì vậy, khi CA dương có nghĩa là Việt Nam đang tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Theo nghĩa này, Việt Nam là nước xuất khẩu vốn ròng!

Điều nghịch lý là chúng ta xuất khẩu vốn ròng nhưng lại đang có lãi suất cho vay rất cao so với các đối thủ trong khu vực. Chúng ta biết bản chất của nghịch lý này ở đâu và khi chúng ta giải quyết được nghịch lý này thì sẽ giải quyết được vấn đề lãi suất hiện nay.

Thứ ba, vấn đề tỷ giá

Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn 2021-2030 với mức tăng trung bình khoảng 7%. Để đạt tốc độ này thì năng suất lao động phải tăng trung bình 6,5%/năm [giả sử rằng tốc độ tăng lực lượng lao động bình quân hàng năm là 0,5%]. Tốc độ tăng năng suất lao động này cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ. Theo hiệu ứng Samuelson-Blassa, đồng nội tệ sẽ chịu áp lực lên giá. Cán cân thanh toán liên tục thặng dư trong thời gian qua là biểu hiện bên ngoài của áp lực này.

Tâm lý của thị trường và người Việt Nam xưa nay đều kỳ vọng đồng VND mất giá và chính sách tiền tệ thường được thiết kế điều hành theo hướng đảm bảo giá trị đồng tiền, tránh mất giá quá mức. Tuy nhiên, với xu hướng mới, chính sách tiền tệ đang phải đối diện với thách thức mới: không để đồng VND lên giá quá mức.

Như vậy, bối cảnh hiện nay đòi hỏi chúng ta cần có cách nhìn nhận mới về chính sách tiền tệ và cả chính sách tài khóa. Ưu tiên đảm bảo các ổn định vĩ mô là yêu cầu bắt buộc nhưng cân bằng giữa ổn định và phát triển là quan trọng hơn. Những diễn biến trên thị trường hiện nay đòi hỏi có một hệ cân bằng mới, linh hoạt hơn nhưng hiệu quả hơn.

• [Trong bài này, chúng tôi sử dụng số liệu của Ngân hàng Thế giới để có thể so sánh với các nước khác nhau, do đó có thể có sự khác biệt so với số liệu của Việt Nam công bố]

Nguyễn Tú Anh
Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam 2021

QUẢNG CÁO Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm

Tiểu luận kinh tế vĩ mô Chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”

[Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức]

Đề cương liên quan:Tiểu luận Phân tích dự án kinh doanh dịch vụ xả Stress

Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Tiểu luận kinh tế vĩ mô Chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

1.     Chính sách tiền tệ

1.1. Khái niệm:

Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế.

Tùy thuộc điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng:

Chính sách tiền tệ mở rộng [tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – chính sách tiền tệ chống thất nghiệp].

Chính sách tiền tệ thắt chặt [giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng – chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền]

1.2. Vị trí chính sách tiền tệ

Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.

Đối với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.

1.3. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ

1.3.1. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền

NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền [chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước] và sức mua đối ngoại [tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ]. Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng không, vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế trì trệ thì kiểm soát lạm phát ở một tỷ lệ hợp lý [thường ở mức một con số] sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế trở lại.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

1.3.2. Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp

CSTT mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng.

1.3.3. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.

1.3.4. Ổn định thị trường tài chính

Tình trạng khủng hoảng tài chính có thể làm giảm khả năng của thị trường tài chính trong việc tạo ra kênh dẫn vốn cho người có cơ hội đầu tư vào sản xuất, qua đó làm giảm quy mô hoạt động kinh tế. Bởi vậy, việc tạo ra hệ thống tài chính ổn định hơn, tránh được các cuộc khủng hoảng tài chính là mục tiêu quan trọng của NHTW.

Sự ổn định thị trường tài chính được hỗ trợ bởi sự ổn định của lãi suất, bởi vì sự biến động của lãi suất tạo ra sự bất định lớn cho các định chế tài chính. Sự gia tăng lãi suất tạo ra các tổn thất lớn về vốn cho trái phiếu dài hạn và các khoản cho vay cầm cố, cũng như những tổn thất này có thể làm cho các định chế tài chính nắm giữ nó sụp đổ.

1.3.5. Ổn định thị trường hối đoái

Với tầm quan trọng ngày càng tăng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế, ổn định tỷ giá trở thành mục tiêu mong muốn của CSTT. Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trong nước so với nước ngoài. Ngoài ra, ổn định tỷ giá giúp cho các doanh nghiệp và cá nhân trao đổi hàng hoá với nước ngoài dễ dàng lập kế hoạch hơn.

1.3.6. Ổn định thị trường lãi suất

Sự biến động của lãi suất có thể tạo ra tính bất định trong nền kinh tế và khó khăn trong lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ, mức chi tiêu của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.

  • Các công cụ của chính sách tiền tệ

2.1. Công cụ trực tiếp

2.1.1. Kiểm soát hạn mức tín dụng

Khái niệm:Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng phải tuân thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của NHTM, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM.

Ưu điểm: là công cụ quan trọng khi các công cụ truyền thống kém hiệu quả.

Nhược điểm: khống chế hạn mức tín dụng làm lãi suất thị trường tăng, làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM.

2.1.2. Quản lý lãi suất của Ngân hàng thương mại

NHTW có thể trực tiếp quy định khung lãi suất đối với các NHTM. [gồm có lãi suất trần và lãi suất sàn với các khoản huy động hoặc cho vay của NHTM].

Ưu điểm: tác động nhanh, trực tiếp đến lãi suất của các NHTM, nhờ đó tác động đến tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Đây là một công cụ quan trọng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả.

Nhược điểm:là một công cụ cứng nhắc, kiểm soát lã suất sẽ triệt tiêu cạnh tranh của các NHTM, dễ gây tác động xấu tới hoạt động tiết kiệm và đầu tư. Vì vậy, nó thườngchỉ được sử dụng trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, hay cácyếu tố thị trường chưa phát triển hoàn chỉnh. Ngoài ra, các NHTM có thể ngầm không tuân theo khung lãi suất quy định của NHTW.

2.2. Công cụ gián tiếp

Bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và dự trữ bắt buộc.

2.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở

Khái niệm: Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhằm làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng. Đây là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

Hàng hoá: [Tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, trái phiếu chính phủ]

Cơ chế tác động:

  • Bán các giấy tờ có giá: thu hẹp tín dụng.
  • Mua các giấy tờ có giá: mở rộng tín dụng. Ưu điểm:
  • NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường mở.
  • Linh hoạt và chính xác cao.
  • NHTW có thể dễ dàng đảo ngược tình thế của mình.
  • Nhanh chóng, ít tốn kém chi phí và thời gian.

Nhược điểm: là công cụ được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào chủ thể khác trên thị trường [các Ngân hàng thương mại, …].Ở Việt Nam do thị trường chứng khoán chính phủ chưa phát triển nên NHNN phát hành tín phiếu NHNN để điều tiết việc cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên do thị trường loại tín phiếu này chỉ diễn ra giữa một bên là NHNN và một bên là các NHTM nên hiệu quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các NHTM. Hiện nay trên thị trường mở chủ yếu là kỳ hạn 7 ngày, các kỳ hạn dài hơn hầu như chưa có.

2.2.2. Chính sách chiết khấu

Khái niệm: Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTW trong việc thực thi chính sáchtiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh.

Cơ chế tác động: NHTW tăng hoặc giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụthuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là nới lỏng hay thắt chặt.

Ưu điểm: NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền vào nền kinh tế, NHTM sẽ có chỗ dựa là NHTW.

Nhược điểm: NHTW thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. NHTWchỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM đến vay chiết khấu ở NHTW.

2.2.3. Dự trữ bắt buộc

Khái niệm: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư. Mức dự trữ cho NHTW quy đinh và bằng một tỉ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi củakhách hàng tại các tỏ chức tín dụng.

Cơ chế tác động:

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

  • Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo bội số tiền gửi của các NHTM. NHTW tăng hoặc giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên.
  • Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của NHTM. Khi tỉ lệ này tăng,đòi hỏi NHTM tăng lãi suất cho vay, khả năng cho vay của NHTM giảm, lượng tiềncung ứng giảm. [và ngược lại]

Ưu điểm:

  • Ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
  • Là công cụ có ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng.
  • Phức tạp, kém linh hoạt, không thể thực hiện những thay đổi nhỏ trong lượng tiềncung ứng bằng công cụ dự trữ bắt buộc.
  • Ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM.
  • Dự trữ bắt buộc đóng vai trò kém quan trọng.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

PHẦN II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VIỆT NAM

  1. Tổng quan chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đối mặt với nhiều thách thức to lớn, giá cả trong nước tăng cao, áp lực lạm phát ngày càng tăng lên do nhiều nguyên nhân nội tại của nền kinh tế tích lũy từ trước đến nay và chính sách nới lỏng tiền tệ để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng trong thời gian 2008-2010, làm tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta.

Cùng với sự điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã đổi mới quan điểm, điều chỉnh mục tiêu chính sách tiền tệ, xác định giai đoạn 2011-2015, ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 3 [khóa XI].

  1. Thực trạng việc áp dụng các công cụ chính sách tiền tệ

Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ đã được Ngân Hàng Nhà Nước sử dụng chủ yếu trong thời gian qua bao gồm: lãi suất, tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát hạn mức tín dụng, ..

2.1. Công cụ lãi suất

Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, Ngân Hàng Nhà Nước trực tiếp quyết định các mức lãi suất như: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường mở, trần lãi suất huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho vay ngắn hạn thuộc 4 đối tượng ưu tiên đối với nền kinh tế của các Tổ chức Tín dụng.

Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của Ngân Hàng Nhà Nước được điều hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: lãi suất tái chiết khấu < lãi suất huy động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn, biên độ 1-2%.

Cơ chế điều hành các loại lãi suất được điều chỉnh linh hoạt, hợp lý và đồng bộ hơn so với những năm trước đây. Trong năm 2012, Ngân hàng Nhà Nước đã liên tiếp thực hiện giảm mặt bằng lãi suất, điều chỉnh giảm 4 lần đối với lãi suất tái cấp vốn từ 15% xuống 9%, lãi suất chiết khấu từ 13% xuống 8%. Lãi suất trên thị trường mở giảm 6 lần. Điều chỉnh giảm 4 lần trần lãi suất tiền gửi tối đa bằng VNĐ, từ 14%/năm xuống 9%/năm

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng đến 12 tháng; từ 6%/năm xuống 2% năm đối với tiền gửi không kỳ hạn. Đồng thời, áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với bốn lĩnh vực ưu tiên [nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành công nghiệp hỗ trợ], lãi suất điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 13%, cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức 14 – 17%/năm. Đặc biệt, vào thời điểm cuối năm 2012 lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8 – 9%/năm so với đầu năm, thị trường tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011.

Đồ thị 1: Diễn biến lãi suất năm 2005 – đầu năm 2013

[Nguồn: Website Ngân hàng Nhà Nước //www.sbv.gov.vn]

Mới đây, theo Quyết định số 643/QĐ-NHNN ngày 25/3/2013 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với các Ngân hàng, NHNN thông báo chính thức điều chỉnh giảm 1% các lãi suất chủ chốt kể từ ngày 26/3/2013, cụ thểđiều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn từ 9%/năm xuống còn 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong

thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng từ 10%/năm xuống 9%/năm.

Đồng thời, NHNN quy định lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VNĐ của tổ chức, cá nhân tại Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đối với các khoản tiền kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng giảm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên do Tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường [theo Thông tư số 08/2013/TT-NHNN ngày 25/3], lãi suất cho vay ngắn hạn tối

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

đa bằng VNĐ của Tổ chức tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên còn 11%/năm, giảm 1%/năm so với trước đó [Thông tư số 09/2013/TT-NHNN ngày 25/3]

Biểu đồ 2: Diễn biến tình hình lãi suất huy động và cho vay

[Nguồn: //www.tinmoitonghop.com/k ho-giam-lai-suat]

Sự đổi mới cơ chế lãi suất nói trên đã khuyến khích các Tổ chức tín dụng huy động vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN không còn cơ hội cho các Tổ chức tín dụng lợi dụng vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất lớn.

2.2. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Cơ chế điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 [đối với VND] và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 [đối với ngoại tệ], thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010.

Theo cơ chế nói trên, chính sách dự trữ bắt buộc được căn cứ vào tính chất kỳ hạn tiền gửi [ngắn, trung, dài hạn], loại tiền gửi [VND và ngoại tệ] và ưu tiên đối tượng cho vay nông nghiệp, nông thôn. Đối với Tổ chức Tín dụng có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng 1/5 [một phần năm] và 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các Tổ chức tín dụng đối với tiền gửi VND cố định 3% và không thay đổi. NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian dài từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6 tháng 2012. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn thanh toán và cho vay của Tổ chức tín dụng. Vì vậy hạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của hệ thống Tổ chức tín dụng

Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các NHTM Việt Nam, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn trở thành vô tác dụng.

2.3. Tái cấp vốn

Trong thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã phát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho các NHTM tuy nhiên vẫn còn một số điểm hạn chế như chưa đủ tiềm lực vốn và điều kiện để cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các Tổ chức tín dụng, chưa tác động được nhiều đến cung

cầu vốn và các loại lãi suất trên thị trường.

Nguyên nhân chủ yếu do nguồn vốn cho vay hạn hẹp, NHNN chỉ được cho vay tái cấp vốn trong một giới hạn nhất định, nằm trong hạn mức đã được Chính phủ duyệt hàng năm; nhiều Tổ chức tín dụng cần vay nhưng không đủ điều kiện được vay tái cấp vốn; một số Tổ chức Tín dụng đủ điều kiện vay vốn nhưng không có nhu cầu vay. Do đó, doanh số cho vay và dư nợ tái cấp vốn đối với các Tổ chức tín dụng không lớn; mức độ

tác động tới lãi suất và cung cầu vốn trên thị trường hạn chế.

Với mức chênh lệch cao giữa lãi suất cho vay thỏa thuận của các Tổ chức Tín dụng với khách hàng và lãi suất cho vay thỏa thuận giữa các Tổ chức tín dụng với nhau so với lãi suất tái cấp vốn, sẽ tạo ra những cơ hội cho một số Tổ chức tín dụng tìm mọi cách để vay tái chiết khấu có lợi hơn huy động vốn từ nền kinh tế, hoặc để cho vay lại

trên thị trường với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất.

Tại Quyết định số 643/QĐ-NHNN ngày 25/3, NHNN điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn từ 9%/năm xuống còn 8%/năm, cùng với các lãi suất khác với mục đích NHNN muốn triển khai các giải pháp tiền tệ, tín dụng ngân hàng theo mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh

tế ở mức hợp ý theo chỉ đạo của Chính phủ.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

2.4. Nghiệp vụ thị trường mở [OMO]

Trong thời gian vừa qua, NHNN điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở theo Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ- NHNN và Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ 01/2007/QĐ-NHNN.

Trong thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày càng được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh cho các Tổ chức tín dụng, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến tổng

lượng tiền cung ứng [M2] trong nền kinh tế, theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và cho vay của tổ

chức tín dụng, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.

Đánh giá một cách khách quan, trong năm 2012, NHNN điều hành nghiệp vụ thị

trường mở OMO chủ động, linh hoạt và hiệu quả hơn thời gian trước đó.

Tuy nhiên, một số vấn đề còn tồn tại như Quy chế nghiệp vụ thị trường mở chậm được điều chỉnh, sửa đổi kịp thời để đồng bộ với các văn bản pháp luật mới [đặc biệt là các quy định mới về phát hành giấy tờ có giá, tiêu chuẩn giấy tờ có giá, định giá giấy tờ có giá, ..] nếu không sớm điều chỉnh sẽ phát sinh các rủi ro về pháp lý, rủi ro về kinh tế

cho các Tổ chức tín dụng và làm giảm hiệu quả của công cụ thị trường mở.

Bên cạnh do, cơ chế mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở hiện hành chủ yếu là đấu thầu khối lượng, các mức lãi suất giao dịch thực tế phản ánh chưa chính xác quan hệ cung cầu vốn, không khuyến khích cạnh tranh thực sự giữa các Tổ chức tín dụng với mục tiêu hạ lãi suất thị trường. Khối lượng giao dịch bị hạn chế trong mức cung tiền mục tiêu hàng năm và khả năng, điều kiện tham gia thị trường mở của các Tổ chức tín dụng,

làm giảm hiệu quả điều tiết, tác dụng của công cụ thị trường mở.

Trong 2012, lạm phát giảm xuống nhanh dưới một con số, tăng trưởng tín dụng quá thấp so với mục tiêu, công cụ thị trường mở phải nhằm mục tiêu bơm tiền ra để hạ lãi suất, kích thích tăng trưởng tín dụng, nhưng lại mâu thuẫn với khả năng hấp thụ vốn của

doanh nghiệp rất thấp, các Tổ chức tín dụng thừa tiền không cho vay được.

2.5. Kiểm soát hạn mức tín dụng

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

Hạn mức tín dụng là công cụ can thiệp trực tiếp, mang tính hành chính của NHNN, được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.

Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.

Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy định. Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn mức như sau: Nhóm thứ 1 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ 2 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín dụng.

Đến tháng 6/2012, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tăng 1,51% so với cuối năm 2011, NHNN đã cho phép tăng chỉ tiêu đối với 10 Tổ chức tín dụng có tính hình tài chính lành mạnh, đã có tăng trưởng tín dụng đạt trên 50% chỉ tiêu thông báo của NHNN từ đầu năm.

Công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN đưa ra trong 2012 đã phát huy tác động tích cực thúc đẩy các Tổ chức tín dụng đổi mới và tái cơ cấu hoạt động theo quan điểm và mục tiêu của chính sách tiền tệ của Chính Phủ trên các mặt sau:

  • Thúc đẩy các NHTM phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả và các chỉ số an toàn hoạt động để được xếp hạng tín nhiệm cao và có được hạn mức tăng trưởng cao.
  • Điều chỉnh, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động vốn, góp phần cải thiện tính thanh khoản của từng ngân hàng và cả hệ thống hệ thống, giảm áp lực lạm phát.
  • Tác động mạnh mẽ và có hiệu quả đến mục tiêu tái cơ cấu, sát nhập các NHTM yếu kém, tăng vốn chủ sở hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ kiểm soát hạn mức tín dụng của NHNN trong thời gian qua đã cho thấy một số vấn đề cần nghiên cứu bổ sung nhằm phát huy hiệu quả cao hơn:

Thời điểm áp dụng công cụ hạn mức tín dụng chưa phù hợp với giai đoạn suy kiệt tín dụng và giảm tổng cầu của nền kinh tế, nên công cụ hạn mức tín dụng không phát huy được tác dụng với nhiều tổ chức tín dụng.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

Chưa xây dựng được bộ tiêu chí phân loại các Tổ chức tín dụng và phương pháp tính toán các tiêu chí phân loại để làm căn cư phân bổ hạn mức tín dụng cho từng tổ chức tín dụng.

3.                 Nhận định tổng quát về chính sách tiền tệ Việt Nam

3.1. Những kết quả tích cực:

  • Những chủ trương định hướng và quan điểm chỉ đạo điều hành về chính sách tiền tệ thể hiện trong các Nghị quyết 11/2011/NQ-CP, nghị quyết 01/2012/NQ-CP và nghị quyết 13/2012/NQ-CP là sự điều chỉnh đúng hướng, phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường, đã kiểm soát cung tiền ở mức hợp lý, mà nhất là tăng trưởng tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
  • Vai trò của tự chủ của NHNN trong hoạch định, điều hành thực thi chính sách tiền tệ được nâng cao và phát huy nhiều hơn trong việc quyết định, lựa chọn sử dụng công cụ điều hành chính sách tiền tệ để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ đã được Chính phủ đề ra.
  • Giữ được hệ thống tổ chức tín dụng không bị đổ vỡ, kiềm chế lạm phát từ mức rất

cao 18,13% năm 2011 xuống ở mức khoảng 7% cuối 2012;

  • Thị trường tiền tệ năm 2012 đã diễn biến theo xu hướng tích cực, những áp lực tăng lãi suất năm 2011 đã chuyển hướng bằng xu hướng giảm lãi suất mạnh mẽ trong 9 tháng đầu năm và tiếp tục giảm sau đó.
  • Chínhsách tiền tệ và chính sách tài khóa ngày càng có sự kết hợp đồng bộ hơn, hiệu quả hơn so với những thời kỳ trước đây.

Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế được điều chỉnh theo hướng hợp lý và tích cực hơn: giảm tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các lĩnh vực đầu cơ bất động sản, chứng khoán và tăng tỷ trọng tín dụng cho 4 lĩnh vực ưu tiên: sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, sản xuất phụ trợ và doanh nghiệp vừa và nhỏ;

  • Hoạt động trên thị trường liên ngân hàng và nghiệp vụ thị trường mở có những bước phát triển mới, tạo ra những chuyển biến tích cực hơn trên thị trường tiền tệ. NHNN đã chủ động hơn trong việc thu thập các thông tin về lãi suất và khối lượng giao dịch trên thị trường tiền tệ để sử dụng các công cụ phù hợp điều tiết cung cầu vốn trên thị trường.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

3.2. Một số vấn đề tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu xử lý

Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, nhưng trong các văn bản chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ thể hiện phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu có mức ưu tiên như nhau như: mức cung tiền M2, tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD. Do đó các giải pháp và công cụ điều hành chính sách tiền tệ nhiều khi phải ưu tiên giải quyết các mục tiêu trước mắt nhằm hỗ trợ tăng trưởng để ổn định kinh tế vĩ mô, nên kết quả chưa đảm bảo được tính bền vững và mục tiêu trung dài hạn.

Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được kết quả khi chỉ số lạm phát xuống mức thấp dưới 2 con số nhưng kết quả chỉ mang tính thời điểm, chưa ổn định và bền vững. Khả năng kiểm soát lạm phát theo mục tiêu còn nhiều thách thức và khó khăn dài hạn.

Những yếu tố và nguyên nhân cơ bản từ nội tại nền kinh tế làm cho lạm phát bùng phát trở lại vẫn chưa được giải quyết; nhiều biến số tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông vượt ra khỏi tầm kiểm soát của NHNN; nguồn lực tài chính của Nhà nước chưa đủ mạnh để can thiệp điều chỉnh có hiệu quả quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ.

Công cụ lãi suất còn một số bất cập về phương pháp xác định các và cơ chế điều hành. Lãi suất huy động và cho vay của các TCTD mang nặng tính hành chính, nhiều khi chưa sát với CPI và chưa điều chỉnh kịp thời với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.

Lãi suất tín dụng tuy đã giảm nhiều so với 2011 nhưng vẫn còn ở mức cao vượt quá khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Hệ thống chính sách và cơ chế tín dụng chưa thực hiện được chức năng phân bổ vốn tín dụng cho khu vực hiệu quả, chưa giải quyết được tình trạng “suy kiệt tín dụng”, tác động tiêu cực đến phát triển trung dài hạn của nền kinh tế.

Tiến trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu vẫn còn khá chậm, gây tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng trong năm 2012, tỉ lệ nợ xấu cao khiến chi phí của ngân hàng tăng mạnh khi phải dự phòng rủi ro lớn. Đồng thời các NHTM cũng dè dặt và chặt chẽ hơn trong việc cho vay đối với doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy về mặt danh nghĩa, lãi suất cho vay tuy có giảm nhưng nguồn vốn tín dụng vẫn chưa thực sự đến được với doanh nghiệp.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

Theo đó, để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ hiện nay, NHNN cần thực hiện các giải pháp sau đây:

  • Thứ nhất: Điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát tiền tệ hợp lý, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
  • Thứ hai: Điều hành chính sách lãi suất theo hướng giảm dần phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn chi phí vay vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế.
  • Thứ ba: Xây dựng phương án và thực hiện linh hoạt các biện pháp kiểm soát tín dụng, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và tình hình hoạt động của các TCTD .
  • Thứ tư: Phối hợp với bộ, ngành, địa phương quyết liệt triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân vay vốn ngân hàng một cách hiệu quả.
  • Thứ năm: Tập trung các biện pháp xử lý và giảm thiểu nợ xấu.
  • Thứ sáu: Điều hành linh hoạt tỷ giá, thu hẹp phạm vi hoạt động ngoại hối kết hợp với xử phạt nghiêm các vi phạm trong hoạt động ngoại hối, góp phần ổn định thị trường ngoại hối, hạn chế tình trạng đô la hóa, ổn định tỷ giá.
  • Thứ bảy: Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD nhằm đảm bảo an toàn hệ thống.
  • Thứ tám: Công tác báo cáo thống kê được củng cố đáp ứng nguồn thông tin, số liệu cho công tác phân tích, dự báo phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành.
  • Thứ chín: Hoạt động thông tin, truyền thông được đổi mới, chủ động cung cấp thông tin cho các cơ quan thông tin, báo chí về tiền tệ, hoạt động ngân hàng để định hướng dư luận và tạo lòng tin cho doanh nghiệp và công chúng đối với các giải pháp điều hành của NHNN.

Bên cạnh đó trong thời gian qua, NHNN đã đưa ra 6 giải pháp quan trọng sau đây:

  • Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường:

NHNN đã ban hành Chỉ thị chỉ đạo toàn hệ thống tổ chức thực hiện chính sách

tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2013 theo sát các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 về những giải pháp chủ yếu

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.

Cụ thể, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng [TCTD] thực hiện các giải pháp tín dụng, lãi suất đã triển khai trong năm 2012 để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, chuyển dịch cơ cấu tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Phối hợp với Bộ Xây dựng dự thảo Thông tư quy định chi tiết cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ.

Triển khai đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015, khẩn trương hoàn thiện đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và đề án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam; quản lý chặt chẽ việc thành lập mới các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và mở rộng mạng lưới của các TCTD theo hướng thận trọng hơn đảm bảo sự phát triển an toàn,lành mạnh của hệ thống TCTD.

– Định hướng tổng phương tiện thanh toán khoảng 14-16%, tín dụng tăng 12%:

NHNN đưa ra định hướng điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát thấp hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; sử dụng chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán hợp lý, đáp ứng yêu cầu thanh toán của nền kinh tế; điều hành lãi suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến tiền tệ và các cân đối vĩ mô, đặc biệt là diễn biến lạm phát.

Theo đó, NHNN đưa ra định hướng tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng14-16%, tín dụng tăng khoảng 12%, tùy theo diễn biến và tình hình thực tế điều chỉnh phù hợp. Để kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo định hướng 12% trong năm 2013, NHNN tiếp tục thông báo tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD để đảm bảo việc mở rộng tín dụng đi đôi với việc đảm bảo chất lượng và an toàn tín dụng cũng như hoạt động của TCTD.

– Điều hòa lưu thông tiền mặt:

NHNN tập trung đảm bảo công tác điều hòa lưu thông tiền mặt, đáp ứng khả năng thanh toán, chi trả trong dịp Tết Quý Tỵ vừa qua, triển khai tốt công tác an toàn kho

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

quỹ. Trên cơ sở cơ cấu mệnh giá trong lưu thông, NHNN đưa tiền ra lưu thông với cơ cấu hợp lý, đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân; việc điều chuyển tiền mặt phục vụ Tết Quý Tỵ đã được hoàn thành ngay trong tháng 01/2013.

– Mua lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối:

NHNN điều hành linh hoạt các kênh cung ứng tiền để kiểm soát tiền tệ hợp lý. Trong điều kiện cung cầu ngoại tệ cải thiện, xu hướng nắm giữ ngoại tệ giảm, NHNN đã mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, đồng thời ổn định tỷ giá [qua đó không làm VND mạnh lên, gây khó khăn cho xuất khẩu]; song song với mua ngoại tệ giữ ổn định tỷ giá, NHNN tiếp tục thực hiện trung hòa lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ thông qua nghiệp vụ phát hành tín phiếu NHNN, giảm áp lực cung tiền tới lạm phát. Bên cạnh đó, NHNN cũng thực hiện thu nợ đối với các khoản cho vay tái cấp vốn đến hạn.

– Điều hành linh hoạt qua thị trường mở:

NHNN điều hành chủ yếu thông qua nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD một cách nhanh nhạy và kịp thời, nhất là vào dịp giáp Tết Quý Tỵ khi nhu cầu rút tiền của Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm xã hội thường tăng cao. Trong 2 tháng đầu năm, NHNN chào mua giấy tờ có giá với khối lượng hợp lý, phù hợp với tình hình vốn khả dụng của các TCTD; kỳ hạn 7 ngày và mở rộng lên cả kỳ hạn 14 ngày vào giáp Tết để tránh đáo hạn ngay sau Tết. Nhờ vậy, thị trường diễn biến ổn định, thanh khoản hệ thống đảm bảo, không còn là tác nhân gây ra xáo trộn về lãi suất thị trường.

  • Theo dõi sát tình hình lãi suất của TCTD:

Về điều hành lãi suất, sau khi điều chỉnh giảm 1%/năm vào cuối năm 2012, trong

năm 2013 NHNN giữ nguyên lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng ở mức 10%/năm, giảm lãi suất tái cấp vốn ở mức 8%/năm và lãi suất tái chiết khấu ở mức 6%/năm.

Ngoài ra, NHNN theo dõi sát và tăng cường giám sát tình hình chấp hành quy địnhlãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND của tổ chức, cá nhân tại các TCTD.

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Kinh tế Vĩ Mô – Nhà xuất bản ĐH Kinh Tế Quốc Dân – 2010
  1. //thuvienphapluat.vn/archive/Chi-thi-01-CT-NHNN-nam-2013-thuc-hien-chinh-sach-tien-te-dam-bao-hoat-dong-vb168744.aspx
  1. //www.tapchitaichinh.vn/Vang-Tien-te/Chinh-sach-tien-te-va-nhung-tac-dong-den-doanh-nghiep-trong-thoi-gian-qua/23904.tctc
  1. //www.tapchitaichinh.vn/Kinh-te-Dau-tu/Phoi-hop-chinh-sach-tai-khoa-voi-tien-te-trong-giai-quyet-cac-van-de-kinh-te-vi-mo/24000.tct
  1. //www.baomoi.com/Viet-Nam-lua-chon-chinh-sach-tien-te-nao/126/2914320.epi
  1. //radiovietnam.vn/theo-dong-su-kien/2013/03/chinh-sach-tien-te-nam-2013-giam-lai-suat-tang-du-no-tin-dung/
  1. //www.tapchitaichinh.vn/Vang-Tien-te/6-giai-phap-quan-trong-ve-dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-thoi-gian-qua/22825.tctc

Chính Sách Tiền Tệ ở Việt Nam                                                                                        GVHD: TS. Bích Dung

DANH SÁCH NHÓM

Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

Video liên quan

Chủ Đề