Trịnh công sơn vì sao chết

Trong sự nghiệp âm nhạc, ông đã sáng tác trên 600 tác phẩm, phần lớn là tình ca. Nhiều ca khúc của ông có thông điệp phản chiến trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam và do đó đã chịu sự cấm đoán, hạn chế của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và ngay cả của chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau này. Nhạc của Trịnh Công Sơn được rất nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng thành công hơn cả là Khánh Ly. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ dù không chuyên.

Tiểu sử

Ông sáng tác bài Sương đêm và Sao chiều vào năm 17 tuổi.. Nhưng tác phẩm đầu tiên của ông là Ướt mi, được xuất bản An Phú in năm 1959. Từ đó tên tuổi của ông được nhiều người biết đến. Trong những năm sau đó, nhạc của ông được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là Khánh Ly. Vì lời lẽ trong nhiều bài hát của ông có tính chất phản chiến, nhà cầm quyền miền Nam đã cấm lưu hành vài tác phẩm của ông. Ngay cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vốn đối lập, cũng không tán thành việc ông gọi Chiến tranh Việt Nam là "nội chiến" trong bài Gia tài của mẹ, vì quan điểm của họ cho rằng đây là cuộc chiến tranh chống xâm lược và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, nhiều bài hát của ông lại rất thịnh hành trong công chúng cho đến hôm nay.

Năm 1961 vì bắt buộc phải trốn lính nên ông thi và theo học ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường Sư phạm Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp ông dạy tại 1 trường tiểu học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng

Một số bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với công chúng Nhật Bản năm 1970 như Diễm Xưa [do Khánh Ly biểu diễn bằng cả tiếng Nhật và tiếng Việt], Ca dao Mẹ, Ngủ đi con.

Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lên đài truyền thanh Sài Gòn hát bài Nối vòng tay lớn, bài hát nói về ước mơ hòa hợp dân tộc hai miền Nam Bắc mà ông viết từ năm 1968.

Theo BBC, sau khi chiến tranh kết thúc, gia đình ông di tản sang Mỹ và ông đã phải sống 4 năm trong trại cải tạo. Nhưng cũng có những nguồn tin theo tác giả Bùi Đức Lạc thì Trịnh Công Sơn chỉ đi kinh tế mới vài năm chứ không hề có cải tạo hay ông đi học tập 2 năm ở Cồn Tiên. . Một thời gian dài sau 1975, nhạc của ông bị cấm đoán ở tại Việt Nam hay bị một ít người ngấm ngầm tẩy chay ở hải ngoại.

Những năm sau 1975, sau thời gian tập trung lao động, ông làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Sóng nhạc. Từ thập niên 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại, và có viết một số bài có nội dung ca ngợi chế độ mới như Thành phố Mùa Xuân, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền thoại Mẹ... Sau đó nhà nước Việt Nam đã nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại tiếp tục đóng góp nhiều bản tình ca có giá trị.

Ông cũng là một diễn viên điện ảnh nghiệp dư, năm 1971 ông thủ vai chính trong phim Đất khổ . Phim hoàn tất năm 1974, nhưng chỉ được chiếu cho công chúng xem 2 lần rồi không được phép trình chiếu ở Miền Nam Việt Nam với lý do “có tính phản chiến” . Sau năm 1975, bộ phim không được trình chiếu tại Việt Nam. Cuối cùng, một bản phim đã về tay nhà thơ Đỗ Trung Quân. Bộ phim được chọn là phim Việt Nam chính trong Liên hoan phim Á Mỹ năm 1996.

Ông bị bệnh gan, thận và tiểu đường. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh tiểu đường lúc 12h45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 [tức ngày 8 tháng 3 năm Tân Tỵ]. Từ đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày này làm ngày tưởng niệm

Suốt đời, Trịnh Công Sơn yêu nhiều nhưng không chính thức kết hôn với ai, và cũng chưa chính thức công nhận con.

Sự nghiệp sáng tác

Bài chi tiết: Nhạc Trịnh và Danh sách tác phẩm Trịnh Công Sơn

Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca khúc, những tác phẩm không những mang đậm một phong cách riêng mà còn gửi gắm một triết lý. Ông từng lý giải cho cái sự sáng tác của mình: "Tôi chỉ là 1 tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo..."

Nhạc tình

Tình yêu là đề tài lớn nhất trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những bản tình ca chiếm đa số trong danh mục nhạc phẩm. Khả năng viết nhạc tình của họ Trịnh tưởng chừng không biết mai một theo năm tháng, theo thời đại: từ 1958 với Ướt mi đã nổi tiếng cho đến thập niên 1990 vẫn có những bản tình ca thấm thía: Như một lời chia tay, Xin trả nợ người...

Nhạc tình của ông đa số là nhạc buồn, thường nói lên tâm trạng buồn chán, cô đơn như trong Sương đêm, Ướt mi, những khúc tình ngầm mang sầu ly biệt như Diễm xưa, Biển nhớ, hay tiếc nuối một cái gì đã qua: Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn nhớ hay em đã quên, Hoa vàng mấy độ... Ngoài ra còn những bài triết lý tình, mang một bóng dáng ngậm ngùi, lặng lẽ của người tình từng trải: Cỏ xót xa đưa, Gọi tên bốn mùa, Mưa hồng...

Những bài hát này có giai điệu nhẹ nhàng, dễ hát, thường được viết với tiết tấu chậm, thích hợp với điệu Slow, Blues hay Boston. Phần lời được đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, bề ngoài trông mộc mạc nhưng rất thâm trầm sâu sắc, đôi khi mang những yếu tố tượng trưng, siêu thực.

Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam, nhạc sĩ Thanh Tùng từng gọi Trịnh Công Sơn là "người Việt viết tình ca hay nhất thế kỷ".

Nhạc phản chiến

Tên tuổi của Trịnh Công Sơn còn gắn liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại chiến tranh, ca ngợi hòa bình mà người ta thường gọi là nhạc phản chiến, sau này tài tử hơn và để tránh nhầm lẫn với những ca khúc phản chiến của tác giả khác, người ta gọi là Ca khúc da vàng.

Theo Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác dạng nhạc này vào khoảng năm 1965- 1966. Năm 1966, ông cho ra đời tập Ca khúc Trịnh Công Sơn, trong đó có manh nha một xu hướng chính trị yếm thế. Đến năm 1967, nhạc Trịnh lên đến đỉnh cao của sự phản chiến bằng tập Ca khúc da vàng. Năm sau, ông cho ra tiếp tập Kinh Việt Nam. Từ năm 1970 tới 1972 ông tự ấn hành được hai tập nhạc phản chiến là Ta phải thấy mặt trời và Phụ khúc da vàng

Nhạc phản chiến của họ Trịnh phần lớn viết bằng điệu Blues, cộng với lời ca chân tình thống thiết, trở nên những bài hát rất cảm động nhưng không hề yếu đuối, bỉ mị. Những bản nhạc này được ông cùng Khánh Ly đem đi hát ở nhiều nơi tại miền Nam, được nhiều người nhất là giới sinh viên nhiệt tình ủng hộ. Đây cũng là loại nhạc làm cho danh tiếng của Trịnh Công Sơn lan ra thế giới: nhờ nhạc phản chiến ông được một Đĩa Vàng [giải thưởng âm nhạc] tại Nhật và có tên trong tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp

Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn được cho là có vai trò không nhỏ trong giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam. Cũng vì loại nhạc này mà ông đã bị tẩy chay nhiều lần từ cả hai phe đối địch. Nhưng về phía Trịnh Công Sơn, không thể phủ nhận rằng ông đã trở thành một tên tuổi đặc biệt nhờ vào dòng nhạc này.

Cho đến nay, sau hơn 30 năm hòa bình, rất nhiều bài hát của ông vẫn còn bị cấm trình diễn tại Việt Nam, dù rất phổ biến [và được Khánh Ly phát hành băng nhạc] tại miền Nam trong thời chiến tranh Việt Nam [như bài Chính chúng ta phải nói hòa bình, Hát trên những xác người, Ta đi dựng cờ, Ta quyết phải sống]

Nhạc khác

Ngoài các bản nhạc tình và nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn còn để lại những tác phẩm viết về quê hương: Chiều trên quê hương tôi, viết cho trẻ em: Em là hoa hồng nhỏ, Mẹ đi vắng, và cả những bài nhạc đỏ: Huyền thoại mẹ, Em ở nông trường - em ra biên giới, Nối vòng tay lớn, Ánh sáng Mạc Tư Khoa, Chưa mất niềm tin, Huế - Sài Gòn - Hà Nội... Trong đó nổi tiếng hơn cả là các bài "Em là hoa hồng nhỏ" và "Nối vòng tay lớn" - có thể nói rằng không một thanh thiếu niên Việt Nam nào lại không biết đến hai bài hát này.

Thơ

Có khá nhiều bài thơ [văn vần không được phổ nhạc] của ông hoặc được cho là của ông hiện đang được truyền tụng trên các diễn đàn.

Hội họa

Cũng giống như đàn anh Văn Cao, Trịnh Công Sơn để lại khá nhiều tác phẩm hội họa, bút tích.

Một số trong đó hiện còn được lưu giữ và trưng bày tại Hội Ngộ Quán.

Vinh dự

  • Năm 1972, ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài "Ngủ đi con" [trong Ca khúc da vàng] qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly. Năm 1979, hãng đĩa Nippon Columbia mời Khánh Ly thu băng lần thứ nhì các nhạc phẩm của ông, cũng vào năm này ca khúc "Ngủ đi con" trở thành 1 hit ở Nhật Bản.
  • Giải thưởng cho Bài hát hay nhất trong phim "Tội lỗi cuối cùng"
  • Giải Nhất của cuộc thi "Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh" với bài "Em ở nông trường, em ra biên giới"
  • Giải Nhất cuộc thi "Hai mươi năm sau" với bài "Hai mươi mùa nắng lạ"
  • Năm 1997 ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc Sĩ cho một chuỗi bài hát: "Xin trả nợ người", "Sóng về đâu", "Em đi bỏ lại con đường", "Ta đã thấy gì hôm nay"
  • Trịnh Công Sơn có tên trong tự điển bách khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays du monde [Coll. Les Millions]

Đóng góp cho điện ảnh

    * Diễn viên: phim "Đất khổ"    * Viết nhạc và bài hát cho phim:   1. Cánh đồng hoang[37]    * Nhạc và bài hát được sử dụng trong phim   1. Mùa hè chiều thẳng đứng   2. Công chúa teen và ngũ hổ tướng [bài "Để gió cuốn đi"]    * Phim về Trịnh: Trịnh Công Sơn - sống và yêu của đạo diễn Lê Dân [Lê Hữu Phước]

Nhạc sĩ NGUYỄN THỤY KHA   -   Thứ năm, 01/04/2021 08:23 [GMT+7]

“Tôi đi từ những cuộc tình nho nhỏ, đến triết lý về thân phận con người rồi ám ảnh chiến tranh. Không gian mở rộng dần, các vấn đề trên đan vào nhau. Tôi muốn viết nên điệu buồn da vàng”. Trong một lần trả lời phỏng vấn, Trịnh Công Sơn đã tự nói về nơi bắt nguồn sự nghiệp âm nhạc đầy chân thành. Mong muốn ấy chỉ dừng lại ngày “cá tháng tư” năm 2001.

Trịnh Công Sơn sinh tại Đắk Lắk ngày 28.2.1939 vào một ngày đầu Xuân, khi dịp Tết Nguyên đán ở nước Việt này chưa khép lại Nguyên tiêu. Có lẽ, đấy là lý do ẩn giấu để cho người nhạc sĩ khai sinh ngày Tết này cho phép tình yêu cứ liên tục như mùa xuân, mùa sinh sôi của vạn vật để chống lại cái chết, xem cái chết chỉ là một tồn tại viển vông trước tình yêu.

Trịnh và những nàng thơ

Có phải nàng hoa khôi xứ Huế ở phố cổ Gia Hội đã tạo ra những “Lao chiều”, “Sương đêm” “chơi vơi” đầu tiên mà Trịnh Công Sơn không bao giờ công bố? Có phải nàng Phương Thảo - Hoa khôi trường Đồng Khánh dáng thanh, đẹp, nhất là đôi mắt, áo dài, guốc mộc, dải nón tím... mà chàng làm gia sư tiếng Pháp với mối tình và chiếc hôn đầu đời luống cuống trong mùi hương riêng biệt đã khiến chàng phải thốt nên “Mưa hồng” để tả dáng đi tuyệt đẹp ngun ngút giữa con đường xanh tươi, xanh như ngọc với 2 hàng long não thơm phức: “Hàng cây lá xanh gần với nhau”, và sau đó là “Nhìn những mùa thu đi” - “bài kinh mùa thu” mà sinh viên Huế đã hát cả mùa đấu tranh Phật tử năm 1963?

Và có phải nàng Bích Diễm nhóm nhen tình yêu từ Huế rồi vào trọ học cùng thi đại học tại Sài Gòn, nhưng chàng trượt mà nàng lại đỗ, rồi vì buồn mà tự ái nên chàng, nàng đã xa lìa? Tơ lòng vấn vương khiến chàng đã phải viết ra “Diễm xưa” cho trút mọi nỗi đau khổ trong lòng, để rồi “Diễm xưa” trở thành một tình khúc có số phận cao sang nhất trong những sáng tạo của Trịnh Công Sơn. Nàng khi chợt nhận ra mình còn yêu chàng thì đã quá muộn. Cô em gái Dao Ánh với đôi môi đỏ rực, đôi môi hồng ngọc đã thay thế bà chị như Thúy Vân thay Thúy Kiều để chàng lại phải da diết lên một “Nắng thủy tinh” hay đến nỗi bà chị khi đã lấy chồng mà vẫn còn viết thơ trách em: “Em biết chị còn yêu anh Sơ, sao lại viết thư tỏ tình với anh ấy”?

Biết bao nợ nần tình cảm với các nàng Huế để rồi vương vấn trong “Hạ trắng”, “Tuổi đá buồn” hay “Hoa buồn” mà Sơn không công bố.

Còn với 2 chị em Thúy Kiều, Thúy Vân kia, chàng đã gửi lời nuối tiếc tuổi thanh xuân của cả hai trong “Xin trả nợ người”. Có phải nàng là một dáng hình cao mảnh mai, tóc dài chấm gót thường đội chiếc mũ bê-rê đỏ vừa xinh vừa nghịch ngợm để chàng thầm viết ra “Về giữa mùa đông”, “Chiều đông”, “Theo mùa xuân đến”, ‘Từ độ yêu người” chưa hề công bố hay nàng là “Người đẹp Đập Đá” - chiếc cầu nối về vùng Vỹ Dạ của người đẹp thuở Hàn Mạc Tử khiến chàng phải viết “Quỳnh Hương”, “Nguyệt ca”?

Đấy là nàng Tôn Nữ Bích Khuê thuở Sư phạm Quy Nhơn dáng người nhỏ, tròn lẳn, nước da ngăm đen, thường đánh tóc rối thành một búi lớn ngược ra sau đỉnh đầu, mang guốc cao gót nhọn hiệu Đa-Kao đi chân sáo. Đứng xa nhìn nàng đi như con sáo nhỏ đang nhảy nhót trong sân, cái búi tóc nhảy tưng theo từng bước. Nàng không đẹp nhưng có duyên, quyến rũ. Nàng tham gia ban hợp xướng để hát “Trường ca dã tràng” của chàng. Tình yêu của nàng khiến Sơn bị ám ảnh viết ra “Biển nhớ” mà trong đó vô tình có câu “Trời cao níu bước sơn khê”.

Đấy là nàng Ngà - một con chiên ngoan đạo xứ Bảo Lộc có nước da trắng như cái tên, người mảnh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, gương mặt phát phất Đức mẹ Maria cứ chiều chiều hai tay ấp quyển Kinh thánh trước ngực, đầu hơi cúi xuống khoan thai bước dịu dàng trong dáng đi với màu áo dài trắng hằn lên màu đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, mơ màng trong sương mờ trầm vang tiếng kèn đồng và tiếng chuông nhà thờ. Hình ảnh của nàng và nỗi thương nhớ người bạn vừa khuất đã đi vào “Lời buồn thánh” mê hồn.

Đó là một thiếu nữ Đà Lạt lạnh lùng, môi tươi thắm, mắt to, ít nói, ít cười, thích đứng nhìn với cái nhìn đầy tự tin với những suy nghĩ rất riêng. Sự mong manh của tình cảm khiến chàng đã viết ra “Như cánh vạc bay”, và hình ảnh còn trở đi trở lại trong nhiều tình ca khác.

Những người tình du ca để “Nối vòng tay lớn”

Ngoài Huế sâu đậm tình quê hương và vùng đất miền Trung, Sài Gòn đã gắn bó với Trịnh từ thời mang danh “Viên ngọc Viễn Đông”, suốt nửa thế kỷ tới ngày tạ thế. Những nàng Kiều ở Sài Gòn cũng khiến chàng nhiều lần rung động.

Ngay từ năm 1958, khi “Ướt mi” được Hà Thanh hát đầu tiên ở Sài Gòn, nàng Thúy “lai Tàu” với vẻ đẹp vũ trường như một vũ trụ mờ sương với khói thuốc quyện ảo ảnh đèn màu khiến Trịnh mềm lòng. Cũng là Thúy nhưng là ca sĩ Thanh Thúy người xứ Huế vào Sài Gòn đã lâu với khuôn mặt trái xoan đầy đặn với giọng hát Liêu Trai mang “Ướt mi” đi muôn nơi nhưng riêng nàng thì đêm đêm thui thủi đi về khuya khoắt trên con hẻm ở đường Cao Thắng. Hình ảnh của giọng hát liêu trai đã cho chàng nhận ra “Thương một người”, bài hát đã khiến thính giả Đài phát thành Sài Gòn mê mần “Chương trình Dạ hoang”.

Từ sau giải phóng Sài Gòn, những bóng hồng vẫn thường ríu rít bên Trịnh Công Sơn. Đó là nàng Việt kiều trở về với đất nước thống nhất, nàng mực thước, ngẫm nghĩ minh triết khiến chàng nể trọng. Đó là một nàng vô tư, đằm thắm, chân tình, mộc mạc khiến chàng hát lên “Hoa xuân ca”, hay nàng Việt kiều Pháp muốn chấm dứt cuộc đời độc lẻ của chàng nhưng mong muốn gần thành thì tự nhiên lại đổ vỡ. Đó cũng có thể là cô sinh viên Nhật theo học tại Paris với luận án “Ca khúc phản chiếu của Trịnh Công Sơn” nói tiếng Việt rất sõi và đã từng hát nhạc Trịnh cùng chàng ở giữa Paris. Và Á hậu Vân Anh thật đẹp, đáng yêu nhưng “nửa đường đứt gánh”. Là Bống Hồng Nhung - một ngôi sao nhạc nhẹ từ Hà Nội vào cư trú Sài Gòn đã tìm đến để có một cách hát Trịnh Công Sơn khác và khiến chàng tuôn chảy những “Thuở Bống làm người”…

Những bóng hồng đi qua đời Trịnh, có những nàng Kiều Hà Nội như nghệ sĩ dương cầm cùng họ Trịnh đã từng làm cho bao thi sĩ Hà Nội phải làm thơ nhưng nàng chỉ yêu Trịnh Công Sơn rồi chuyện tình cũng được “để gió cuốn đi”. Chàng cũng quý Dung Hòa vì giọng hát nhạc khàn khàn và mến Mai Hoa nhí nhảnh, ham vui. Chàng thân với Phương Thanh - Hiền “cá sấu” để viết ra “Đời gọi em biết bao lần”.

Nữ ca sĩ Khánh Ly - “người tình” trong âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Ảnh: NVCC Tất nhiên, người đặc biệt quan trọng, vô cùng thương mến nhưng không khi nào là người tình mà là người chắp cánh cho những ca khúc Trịnh Công Sơn vượt thời gian: Khánh Ly. Khi gặp cô ca sĩ trẻ này ở Đà Lạt với cái tên Lệ Mai, chàng đã biết ngay rằng mình đã gặp được người thể hiện tâm hồn mình. Thế là họ bỏ về Sài Gòn du ca từ năm 1965, và cho đến nay, giọng hát mê hồn của Khánh Ly đã mang nhạc Trịnh vào sâu từng ngóc ngách trong con người của biết bao thế hệ.

Video liên quan

Chủ Đề