Vì sao sau chiến tranh thế giới thứ 2 phong trào giải phóng dân tộc châu Phi

Vì sao sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi được mệnh danh là “lục địa mới trỗi dậy”?

B. Châu Phi đánh thắng 17 kẻ thù đế quốc.

C. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ.

Đáp án chính xác

D. Kinh tế châu Phi phát triển thần kì.

Xem lời giải

Vì sao phong trào giải phóng dân tộc châu Phi được mệnh danh là Đại lục mới trỗi dậy?

14/12/2021 112

Câu hỏi Đáp án và lời giải
Câu Hỏi:
Vì sao sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc châu Phi được mệnh danh là "Đại lục mới trỗi dậy"?
A. Thường xuyên bị động đất. B. Đánh thắng 17 kẻ thù đế quốc C. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ. D. Nhiều quốc gia dân tộc dân chủ được thành lập.
Câu hỏi trong đề: 40 câu hỏi trắc nghiệm các nước châu Phi độ khó cơ bản
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: C
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc châu Phi được mệnh danh là "Đại lục mới trỗi dậy" vì phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ.

Điền Chính Quốc (Tổng hợp)

Câu hỏi liên quan
Từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX đến nay, các nước châu Phi vẫn còn gặp nhiều khó khăn do đâu?

A. Các cuộc xung đột nội chiến đẫm máu giữa các bộ tộc, sắc tộc.

B. Sự bùng nổ dân số, đói nghèo, bệnh tật, nợ nần chồng chất.

C. Sự xâm nhập, bóc lột của chủ nghĩa thực dân mới.

D. Cả ba lý do trên.

Với sự kiện 17 nước châu Phi được trao trả độc lập, lịch sử thế giới đã ghi nhận năm 1960 là

A. Năm châu Phi giải phóng.

B. Năm châu Phi.

C. Năm châu Phi nổi dậy.

D. Năm châu Phi thức tỉnh.

Cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân cũ diễn ra trên biển và quyết liệt nhất ở nước nào của châu Phi?

A. Tuy-ni-di

B. Ma rốc

C. An-giê-ri

D. Ghi-nê

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, điều kiện khách quan nào có lợi cho phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh?

A. Liên Xô tăng cường viện trợ kinh tế.

B. Các nước đế quốc suy yếu.

C. Trật tự hai cực Ianta đã được xác lập.

D. Các lực lượng dân tộc trưởng thành.

Để thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện nay, các nước Châu Phi đã:

A. Dựa vào sự giúp đỡ của các nước tư bản phương Tây.

B. Thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế ngắn hạn, dài hạn, phù hợp với điều kiện của từng nước.

C. Tích cực tìm kiếm các giải pháp, đề ra cải cách nhằm giải quyết xung đột, khắc phục những khó khăn về kinh tế, thành lập các tổ chức liên minh khu vực.

D. Ứng dụng thành tự khoa học - kĩ thuật vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Năm châu Phi là năm:

A.1960

B.1965

C.1956

D.1945

Tình hình các nước ở khu vực Mĩ La- Tinh có điểm khác so với Châu Á và Châu Phi cùng thời kì là

A. nhiều nước là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân

B. nhiều nước đã giành được động lập hoàn toàn

C. nhiều nước có nền kinh tế phát triển và trở thành nước công nghiệp mới

D. nhiều nước đã giành được độc lập nhưng lại bị lệ thuộc nặng nề vào Mĩ

Phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân các nước Châu Phi nổ ra sớm nhất ở

A. Bắc Phi

B. Nam Phi

C. Đông Phi

D. Trung Phi

Từ những năm 80 của thế kỷ XX Châu Phi gặp khó khăn gì?

A. Sự đe dọa của chủ nghĩa thực dân mới

B. Xung đột

C. Nội chiến, đói nghèo, bệnh tật, nợ nước ngoài và bùng nổ dân số.

D. A, B, C đúng.

Hiện nay, khó khăn lớn nhất mà các nước Châu Phi gặp phải là

A. Xung đột, nội chiến đẫm máu do mâu thuẫn sắc tộc hoặc tôn giáo, tình trạng đói nghèo, nợ nần chồng chất và các lọai dịch bệnh hoành hành.

B. Sự xâm lược cùng với chính sách vơ vét, bóc lột của chủ nghĩa thực dân mới.

C. Các nước đế quốc ngày càng mở rộng hệ thống thuộc địa ở khu vực này.

D. Thiên tai, dịch bệnh thường xuyên

Nội dung nào sau đây là một trong những yếu tố dẫn đến thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi sau Chiến tranh thế giới thứ hai?

A. Quần chúng nhân dân tham gia đông đảo.

B. Có sự viện trợ của tất cả các nước Mĩ Latinh.

C. Nhận được viện trợ của tất cả các nước châu Âu.

D. Nhận được viện trợ của các nước Đông Dương.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một trong những quốc gia ở châu Phi giành được độc lập là

A. Trung Quốc.

B. Ai Cập.

C. Ấn Độ.

D, Nhật Bản.

Nội dung nào sau đây là một trong những yếu tố dẫn đến thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi sau Chiến tranh thế giới thứ hai?

A. Sự trưởng thành của ý thức dân tộc.

B. Nhận được viện trợ của tất cả các nước châu Âu.

C. Nhận được viện trợ của các nước Đông Dương.

D. Có sự viện trợ của tất cả các nước Mĩ Latinh.

Phương pháp đấu tranh chủ yếu mà các nước châu Phi sử dụng để chống chế độ thực dân là

A. phương pháp chính trị

B. đấu tranh kinh tế

C. đấu tranh nghị trường

D. phương pháp vũ trang

Báo đáp án sai
Đang xử lý...

Cảm ơn Quý khách đã gửi thông báo.

Quý khách vui lòng thử lại sau.

Mục lục

  • 1 Giai đoạn 1918-1923
    • 1.1 Châu Á
    • 1.2 Châu Phi
  • 2 Giai đoạn 1924-1929
    • 2.1 Châu Á
    • 2.2 Trung Đông và Bắc Phi
  • 3 Giai đoạn 1929-1939
    • 3.1 Châu Á
    • 3.2 Châu Phi
  • 4 Sau Chiến tranh thế giới thứ hai
  • 5 Chú thích

Giai đoạn 1918-1923Sửa đổi

Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 năm 1917 ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc đã mở ra một thời kỳ phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.[1]

Sau cách mạng tháng 10, Lênin đã thay mặt Đảng Bolshevik Nga công bố “Sắc lệnh về hòa bình” của Nhà nước Xô-viết, trong đó lên án mọi chính sách bạo lực cường quyền, phản đối chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa bình và quyền bình đẳng, quyền tự quyết định vận mệnh của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Lênin nêu rõ: “Chiến tranh là một tội ác lớn nhất đối với nhân loại... Chúng ta đấu tranh chống sự dối trá của các chính phủ, trên lời nói thì tất cả đều nói về hòa bình, về công lý, nhưng trong việc làm lại tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược và cướp bóc...”. Lần đầu tiên chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc bị lên án, bị coi là tội ác lớn nhất chống lại nhân loại.[2]

Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia – dân tộc trên hành tinh. Sau những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu gánh nặng của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn, đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc.[1]

Năm 1927, trong cuốn sách sách giáo khoa lý luận chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam[3] – Đường kách mệnh, nhà cách mạng Việt Nam Nguyễn Ái Quốc (1890–1969) giới thiệu cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, ông coi đó là con đường giải phóng cho dân tộc khỏi ách thực dân:

Trong thế giới bây giờ chỉ có kách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Kách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm kách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Kách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn kách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin[4]

Châu ÁSửa đổi

Châu Á là khu vực đông dân nhất thế giới, bao gồm những nước có lãnh thổ lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên hết sức phong phú. Từ cuối thế kỷ XIX, các nước châu Á đã trở thành những nước thuộc địa, nửa thuộc địa của chủ nghĩa thực dân như: Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan… chịu ách bóc lột, nô dịch nặng nề. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước châu Á lên cao và lan rộng hơn cả so với châu Phi và Mĩ la tinh.

Ở Trung Quốc, ngày 4-5-1919, phong trào cách mạng rộng lớn chống chủ nghĩa đế quốc đã bùng nổ, mở đầu cho cuộc cách mạng dân chủ mới tiếp diễn trong suốt 30 năm sau đó. Phong trào Ngũ Tứ đã thúc đẩy phong trào công nhân Trung Quốc nhanh chóng kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921.

Năm 1921, cuộc cách mạng nhân dân Mông Cổ thắng lợi. Đến năm 1924, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á được thành lập. Với sự ủng hộ và giúp đỡ của giai cấp vô sản Nga, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ đã đứng vững và từng bước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm 1918 - 1922, nhân dân Ấn Độ đã tăng cường đấu tranh chống thực dân Anh. Nhiều cuộc bãi công lớn của công nhân với hàng chục vạn người tham gia, kéo dài hàng tháng, đã lan lộng khắp cả nước. Đồng thời, phong trào nổi dậy của nông dân cũng liên tiếp bùng nổ chống lại bọn địa chủ phong kiến và đế quốc Anh.

Ở Thổ Nhĩ Kì, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1919 - 1922 (do giai cấp tư sản lãnh đạo) đã kết thúc thắng lợi. Ngày 29-10-1923, chế độ cộng hòa được thiết lập Thổ Nhĩ Kì có điều kiện để trở thành một nước có chủ quyền và bước vào thời kì phát triển mới.

Năm 1919, nhân dân Ápganixtan thu được thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, buộc đế quốc Anh phải công nhận quyền độc lập chính trị của mình. Cũng vào năm 1919, nhân dân Triều Tiên đã nổi dây khởi nghĩa chống đế quốc Nhật Bản.

Những năm sau Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi và Mĩ la tinh cũng có những bước phát triển mới.[1]

Châu PhiSửa đổi

Ở châu Phi, phong trào đấu tranh mạnh mẽ nhất là ở Ai Cập. Năm 1918, những tiểu tổ xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Cairô, Alêchxanđri, Poócxait, rồi hợp nhất thành Đảng Xã hội và từ năm 1921 mang tên Đảng Cộng sản Ai Cập. Trong những năm 1918 - 1923, đã diễn ra cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho Ai Cập… bằng con đường hòa bình hợp pháp, do giai cấp tư sản dân tộc khởi xướng. Bị thực dân Anh đàn áp, phong trào vẫn tiếp tục dâng cao và chuyển biến thành khởi nghĩa vũ trang trong nhiều thành thị. Công nhân xe điện, đường sắt ở Cairô, công nhân khuân vác ở Alêchxanđri, các viên chức cơ quan nhà nước đã bãi công.

Trong nhiều làng xã, tỉnh thành, các ủy ban cách mạng (mang tên gọi Xô viết) được thành lập. Nhân dân Ai Cập đã anh dũng đấu tranh nhưng do thiếu sự lãnh đao thống nhất nên đến đầu tháng 4 - 1919, thực dân Anh đã đàn áp được khởi nghĩa vũ trang.

Cuối năm 1921, cuộc khởi nghĩa mới lại bùng nổ. Thực dân Anh buộc phải đi đến những nhượng bộ bề ngoài. Tháng 2 - 1922, Chính phủ Anh phải tuyên bố hủy bỏ chế độ bảo hộ và trao trả “độc lập” cho Ai Cập. Xuntan Atmét Phuát đổi danh hiệu là vua Phuát I; tháng 5 - 1923, hiến pháp mới được ban hành. Tuy vậy, trên thực tế ảnh hưởng của đế quốc Anh vẫn giữ nguyên. Quân đội Anh vẫn đóng ở Ai Cập, thực dân Anh còn nắm quyền nội trị, ngoại giao và đô hộ trực tiếp vùng Xuđăng.

Ở Tuynidi, phong trào diễn ra sôi nổi trong những năm 1920 – 1922.

Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Đồng thời giai cấp tư sản dân tộc, đứng đầu là Xaalibi, cũng dấy lên phong trào đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho Tuynidi. Thực dân Pháp chẳng những bác bỏ các yêu sách đó mà còn đàn áp phong trào. Lập tức làn sóng biểu tình phản đối và bãi công sôi sục diễn ra khắp cả nước. Phong trào đấu tranh chính trị lên tới đỉnh cao vào tháng 4 - 1922, đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện những cải cách hiến pháp. Tháng 6 - 1922, chính phủ Pháp buộc phải ban hành sắc lệnh về cải cách hiến pháp ở Tuynidi. Phong trào đấu tranh vũ trang bùng lên mạnh mẽ ở nhiều vùng Marốc (thuộc Pháp) và đặc biệt Marốc thuộc Tây Ban Nha. Giữa năm 1921, các bộ lạc Rớp (thuộc Tây Ban Nha), dưới sự lãnh đạo của Ápđen Kêrim, đã đánh bại đạo quân của tướng Xinvéttôrơ gồm 12.000 binh lính với 120 khẩu đại bác. Ngày 19 - 9 - 1921, trong đại hội các bộ lạc, dưới sư lãnh đạo của Ápđen Kêrim, Cộng hòa Ríp độc lập đã ra đời và tồn tại được đến năm 1926.

Ở châu Phi nhiệt đới cũng bùng nổ phong trào đấu tranh chống đế quốc. Phong trào bãi công rộng lớn ở Nạm Phi (diễn ra trong những năm 1918 - 1920, Đảng Cộng sản Nam Phi ra đời năm 1921, Đảng Đại hội quốc dân Tây Phi thành lập năm 1920 và Đại hội toàn Phi họp năm 1919 là những sự kiện quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi. Đặc biệt, Đại hội toàn Phi lần thứ I họp năm 1919 ở Pari (có 17 Đại biểu tham dự) đã để ra nghị quyết về quyền của người Phi được tham gia cai quản đất nước, bắt đầu từ các cơ quan địa phương và dần dần đi đến những “nhiệm vụ chính quyền cấp cao để trong tương lai châu Phi phải do người Phi cai quản”.[1]