Violet sáng kiến kinh nghiệm giải pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2 sách cánh điều
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP 2 MÔN TOÁN: Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2
Thực tế dạy học môn toán ở trường về phía giáo viên trực tiếp giảng dạy rất nhiệt tình nhưng có thể nói mỗi bài dạy toán là một hệ thống mở nhằm phát huy tối đa khả năng sáng tạo nghệ thuật sư phạm của mỗi giáo viên trong từng giờ dạy. Giáo viên học hỏi nghiên cứu tài liệu nhiều nhưng hiệu quả giờ dạy chưa cao. Bên cạnh đó nhiều học sinh chưa ý thức được việc học là cần thiết, còn lơ là chưa chủ động học tập, do vậy không tiếp thu được lượng kiến thức thầy cô truyền đạt, kể cả kiến thức đơn giản nhất, gây rất nhiều khó khăn cho việc học lên lớp trên. Vậy phải làm thế nào để tất cả học sinh trong lớp đều tích cực học tập, tự giác tiếp thu bài, nắm chắc kiến thức một cách hệ thống, phát huy tốt khả năng của các loại đối tượng học sinh trong lớp nhất là đối với học sinh yếu. Tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp biện pháp khắc phục rèn học sinh yếu trong môn toán, đáp ứng yêu cầu dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng và thực hiện nghiêm túc các cuộc vận động 2 không với 4 nội dung của ngành đề ra .Qua nhiều năm nghiên cứu tìm tòi tôi áp dụng nhiều hình thức tổ chức trong giờ học. Đưa ra nhiều việc làm cụ thể thiết thực phối hợp cùng gia đình nhà trường và xã hội để giáo dục các em học sinh yếu môn toán . Vì thế tôi chọn đề tài:“ Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2”.
II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
III: MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
IV: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
V. THỰC TRẠNG:
Học sinh tôi đang dạy ở lóp 2/2 của Trường Tiểu học Phú Thọ 1 một trường vùng ven thị xã nên đối tượng học sinh đều là con công nhân, con của những người nhập cư (tạm trú) nay đây mai đó nên họ không có thời gian lo cho con cái học hành. Vì phải lo toan cho miếng cơm manh áo hằng ngày. Nên họ đã phó mặc chuyện học hành của con cái mình cho cô giáo chủ nhiệm. Chính vì thế là giáo viên chủ nhiệm tôi luôn trăn trở dạy học làm sao cho các em mọi để hiểu bài kể cả những em học sinh yếu cũng tiếp thu được nên tôi đã chọn đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập mônToán ở lớp 2”. PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Đề bài: Toán 2 (Thời gian 40 phút) Câu1: (1 điểm) Số 79, … ; 81; …. ; ….. ; 86; …… ; 88; …… 90.Câu2: (1 điểm) a, Khoanh vào số lớn nhất: 65, 32, 54, 79, 45, 69. b, Khoanh vào số bé nhất: 76, 48, 21, 99, 82, 19.Câu3: (2 điểm) Đặt tính rồi tính 50 – 30 52 + 36 98 - 54 71 + 7 Câu 4: Tính (1 điểm) 12 + 3 + 4 = 25 + 14 + 0 = 18 – 3 -5 = 99 - 62 - 32 =Câu 5: (1 điểm) Đúng ghi Đ, sai ghi S 17 + 22 > 39 30 + 20 = 50 - 0 85 - 44 < 42 16 + 3 < 19 - 3Câu 6: (2 điểm) Cây xoài nhà em có 45 quả. Mẹ đã ngắt 15 quả mang bán. Hỏi trên cây xoài còn lại bao nhiêu quả? Câu 7(1 điểm) Hình vẽ bên a, Có …….. hình vuông. b, Có …….. hình tam giác Qua đề khảo sát chất lượng, tôi thu đựoc kết quả như sau:
II. Biện pháp thực hiện: Việc dạy học toán cho học sinh Tiểu học ngay từ lớp đầu cấp là một vấn đề rất khó. Các em bước đầu làm quen với việc học số và chữ số, biết làm các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 100, giải toán đơn, và một số loại toán khác. Để giúp các em nắm chắc kiến thức một cách có hệ thống, đặc biệt là học sinh yếu kém trong quá trình giảng dạy tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp phù hợp với nội dung từng bài, phù hợp với từng đối tượng học sinh như sau:1. Sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy bài mới với học sinh yêú kém: Để giúp học sinh cả lớp hiểu bài. Không những giáo viên cần phải hiểu đươc đặc điểm tâm sinh lí từng em học sinh lớp mình mà còn phải biết vận dụng phương pháp phù hợp với nội dung của từng bài. Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, tôi nhận thấy các em nhận thức tốt từ “ Trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” Các em hiểu được bài từ cái cụ thể gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Do vậy khi dạy bài mới cho học sinh tôi thấy cần có đồ dùng trực quan giúp các em hiểu bài nhanh, nhớ lâu và gây hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt là đối với học sinh yếu kém thì việc dạy bằng đồ dùng trực quan ở bài mới là không thể thiếu. Các dạng bài tôi dạy bằng que tính thì bài này tôi đổi sử dụng bằng ô vuôngChẳng hạn khi dạy bài: 8 cộng với một số ( trang 15) Bước 1: GV nêu bài toán: Có 8 ô vuông (gài 8 ô vuông lên bảng đồng thời cho các em lấy ô vuông để trên bàn) thêm 5 ô vuông nữa (đính 5 ô vuông ở dưới 9 ô vuông). Hỏi có tất cả bao nhiêu ô vuông? Học sinh quan sát và nhận biết hàng trên có 8 ô vuông, hàng dưới có 5 ô vuông và nêu được phép tính 8 + 5.Bước 2: Với học sinh khá giỏi: Tôi cho học sinh tự thực hiện trên ô vuông theo nhiều cách để tìm ra kết quả.. Giáo viên chốt cách làm: * Lưu ý học sinh tránh học vẹt bằng cách giáo viên chỉ cho học sinh đọc không theo thứ tự. Qua sử dụng đồ dùng vào việc thành lập bảng 8 cộng với một số, các em đều nắm chắc cách thực hiện phép cộng đúng. Đây là một trong những kiến thức sơ đẳng, đơn giản nhưng rất quan trọng. Nó là bước để các em học các bảng cộng tiếp theo như bảng 7 cộng với một số, bảng cộng 6 với một số và xuyên suốt trong quá trình học các phép cộng có nhớ trong phạm vi 100.( 49 + 5; 49 + 25; 28 + 5; 38 + 25 ; ……. ). Mặt khác trong quá trình giảng dạy sử dụng đồ dùng cũng phải được đưa ra đúng lúc, đúng thời gian, phù hợp với nội dung bài dạy. Câu hỏi đặt ra phải ngắn gọn, chính xác, có hệ thống để giúp học sinh độc lập suy nghĩ và tự chiếm lĩnh tri thức mới.Ví dụ: Khi dạy bài kilôgam (trang 32) Đây là bài dạy hình thành và phát triển cho học sinh các biểu tượng về đại lượng, cụ thể là đơn vị kilôgam. Đây là một bài khó đối với học sinh, nhất là học sinh yếu. Để học sinh hiểu được biểu tượng về đơn vị kilôgam. Tôi tăng cường cho học sinh thực hành. Sau khi giới thiệu vật “ nặng hơn” , vật” nhẹ hơn”, qua hoạt động so sánh học sinh dần dần có biểu tượng về đại lượng (khối lượng). Giáo viên giới thiệu cái cân đĩa thật (loại cân có hai đĩa hai bên và kim thăng bằng ở giữa) và hướng dẫn học sinh sử dụng cách cân với cân đĩa: Khi đặt các vật lên hai đĩa cân, nêu mũi tên chỉ sang đĩa cân nào thi đĩa cân đó có vật nặng hơn. Nhưng khi thực hành tôi sẽ cho học sinh thực hành cân trên cân đồng hồ vì hiện nay các em chỉ còn thấy cân đồng hồ, cân bàn, cân xách tay chứ không biết cân đĩa nên sẽ rất khó. Giáo viên cho một số em lần lượt đặt quyển vở lên một đĩa cân, quyển sách lên đĩa cân, quan sát kim của cân quay ở mặt cân rồi cho học sinh nhận xét: “ Quyển sách nặng hơn quyển vở hoặc quyển vở nhẹ hơn quyển sách.”(khi cân vật nào nặng hơn kim sẽ quay về phía dưới.) - Giáo viên có thể cho học sinh so sánh sự nặng hơn, nhẹ hơn của một số vật sau khi cân xong. - Giáo viên cho học sinh quan sát khi cân quyển sách kim sẽ quay theo chiều kim đồng hồ, kim dừng lại vạch chỉ số trên cân sẽ biết quyển sách nặng bao nhiêu.Quyển sách nhẹ hơn 1 kg hay 1 kg nặng hơn quyển sách. - Giáo viên cho học sinh đặt lên đĩa cân một túi đường( nặng 1kg)cân sẽ quay vào số 1 thì các em biết ngay gói đường đó nặng 1kg.
Học sinh thực hành cân Với học sinh yếu tôi cho các em trực tiếp tham gia thực hành và nhận xét để các em có biểu tượng ban đầu về kilôgam(kg). Giờ dạy diễn ra với nhiều hoạt động khác nhau nhằm hình thành và phát triển ở học sinh biểu tượng về đơn vị kilôgam. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn cho các em cân sức khỏe của bản thân mình rồi tự xem cân xem mình nặng bao nhiêu kg. Học sinh thực hành cân Với bài dạy sử dụng đồ dùng trực quan như trên, tôi thấy tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều hiểu bài, lớp học sôi nổi. Song để giúp học sinh yếu nhớ bài lâu, biết vận dụng kiến thức ở bài mới vào thực hành thành thạo, điều không thể thiếu là củng cố qua các bài luyện tập. 2. Rèn học sinh yếu kém qua bài luyện tập: Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, tôi thấy các em nhanh nhớ lại nhanh quên nhất là học sinh yếu. Do đó việc học tập của các em phải được rèn luyện thường xuyên liên tục qua các tiết luyện tập. Đặc biệt với học sinh yếu kém cần được sự động viên quan tâm giúp đỡ nhiều của thầy cô giáo, bạn bè, giúp các em lựa chọn tìm ra cách giải các bài một cách ngắn gọn. Dễ hiểu nhất, phù hợp với nhận thức của các em nhưng vẫn đảm bảo được kiến thức cơ bản trong tâm của bài. Ví dụ: Khi dạy Bài: Luyện tập (trang 70) Bài 1: Tính nhẩm18 – 9 = 16 – 8 = 14 – 7 = 17 – 9 = 17 – 8 = 15 – 7 = 13 - 6 = 12 - 8 = 16 - 7 = 14 - 6 = 12 – 5 = 16 - 6 = 15 - 6 = 13 - 5 = 11 - 4 = 14 – 5 = 12 - 3 = 12 - 4 = 10 - 3 = 11 - 3 = Ở bài tập này yêu cầu học sinh phải tính nhẩm đúng dựa vào các bảng trừ đã học.Bước 1: Với học sinh khá, giỏi: Tôi cho học sinh hỏi đáp nhau theo cặp các phép tính ở hàng ngang hoặc cột dọc, có thể thi giữa các dãy để khích lệ những học sinh chưa mạnh dạn tự tin trong học tập. Ngoài các phép tính trên các em có thể hỏi thêm một số phép tính trong các bảng trừ đã học. Bước 2: Với học sinh yếu giáo viên phải gợi lại cho học sinh các bảng trừ đã học, cách trừ. Nếu học sinh vẫn chưa thực hiện được, giáo viên có thể cho học sinh dùng que tính để thực hiện. Chẳng hạn như phép tính 12 – 3 học sinh xếp 12 que tính: lấy đi 2 que, lấy tiếp 1 que tính nữa ( 2 + 1= 3) . Giáo viên hỏi học sinh : “ Có 12 que tính , lấy đi 3 que tính , còn lại mấy que tính? “. Học sinh sẽ trả lời được: “ 12 que tính lấy đi 3 que tính còn lại 9 que tính. “ Để học sinh yếu có thể tính nhẩm được thi giáo viên phải thường xuyên kiểm tra việc học thuộc các bảng cộng, trừ. Bài tính nhẩm là tiền đề cho ba bài còn lại, nếu là thành thạo bài này các em có thể dễ dàng làm được bài tiếp theo dưới hình thức khác. Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 2 tôi nhận thấy dạng bài tìm tìm số bị trừ và số trừ là các em hay mắc nhất, đặc biệt là học sinh yếu. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã chủ động dạy tốt bài” Số bị trừ, số trừ, hiệu” để các em nắm được tên gọi thành phần, kết quả phép trừ. Trong các bài tập tôi luôn ôn lại cho học sinh các tên gọi thành phần, kết quả phép trừ để các em không nhầm lẫn giữa số bị trừ và số trừ. Đồng thời giúp các em nắm tốt các phương pháp tìm số trừ và số bị trừ. Khi các em làm sai tôi cho các em tự nhận ra lỗi sai bằng cách nêu tên gọi thành phần, kết quả phép trừ, xác định cần phải làm gì? ( Số bị trừ hay số trừ) để học sinh ôn lại cách làm và thức hiện lại cho đúng. Do vậy đối với các em học sinh, nhất là học sinh yếu, việc làm bài tập để củng cố và ôn lại kiến thức là cần thiết. 3. Tổ chức cho học sinh yếu , kém học nhóm: Việc rèn học sinh yếu kém phải tổ chức nhiều hình thức phong phú khác nhau, giáo viên luôn chú ý hoà đồng học sinh cả lớp, luôn động viên, khích lệ kịp thời tránh để các em mặc cảm về mình, không mạnh dạn trước đông người, không dám thể hiện mình trước các bạn. Do vậy cần tổ chức cho các em học tập theo nhóm. Sắp xếp nhóm có cả học sinh khá, giỏi giúp học sinh luôn có ý thức thi đua phần đấu học như bạn luôn lấy gương học tập của các bạn để noi theo.Ví dụ: Khi dạy bài” Luyện tập” ( trang 37)
|