Xu hướng áp dụng rào cản hành chính pháp lý

Mục lục bài viết

  • 1. Các rào cản kỹ thuật thương mại là gì?
  • 2. Các loại rào cản kỹ thuật thương mại
  • 3. Sự khác biệt giữa TBT và SPS là gì?
  • 4. Tác động, ảnh hưởng của các rào cản kỹ thuật tới thương mại quốc tế
  • 5. Khi nào biện pháp kỹ thuật thương mại được coi là gây ra những "cản trở không cần thiết"?

1. Các rào cản kỹ thuật thương mại là gì?

Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại có thể do những đòi hỏi chung về các sản phẩm ở một nước (hay khu vực kinh tế) tạo nên. Các đòi hỏi này có thể liên quan tới đặc tính sản phẩm; quy trình và các phương pháp sản xuất; bao gói, nhãn mác và thông tin cần phải cung cấp; và việc đánh giá sự phù hợp. Chẳng hạn, các đặc tính sản phẩm có thể liên quan tới kiểu dáng, kích cỡ, vệ sinh và an toàn, công dụng, các thành phần hóa chất, giá trị dinh dưỡng V.V...

Những yêu cầu về quy trình và phương pháp sản xuất chủ yếu được sử dụng khi các đặc tính sản phẩm không thể đo lường hay thử nghiệm một cách khả thi. Các ví dụ điển hình là những yêu cầu về các phương pháp hàn đối với các bình áp suất, hay những yêu cầu vệ sinh đối với các lò mổ và các cơ sở chế biến sữa. Cũng thuộc loại này là những đòi hỏi nhà sản xuất phải vận hành một hệ thống chất lượng.Những đòi hỏi vế đóng gói, nhãn mác và thông tin cần phải cung cấp tăng mạnh, đặc biệt đối với lương thực và các mặt hàng tiêu dùng khác. Thay vì tuyên truyền một số đặc tính nào đó của sản phẩm, thì nay sự lựa chọn cuối cùng thuộc về người tiêu dùng đã có đủ thông tin.

Trong thương mại quốc tế, các “rào cản kỹ thuật đối với thương mại” (technical barriers to trade) thực chất là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (sau đây gọi chung là các biện pháp kỹ thuật - biện pháp TBT)

Các biện pháp kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường, an ninh... Vì vậy, mỗi nước thành viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với thương mại quốc tế bởi chúng có thể được sử dụng vì mục tiêu bảo hộ cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “rào cản kỹ thuật đối với thương mại”.

Tầm quan trọng của các rào cản kỹ thuật đối với thương mại quốc tế gia tăng trong 30 năm qua cả ở khía cạnh tương đối và khía cạnh tuyệt đối. Nói một cách tương đối, thì rào cản kỹ thuật ngày càng trở nên quan trọng hơn, vì các rào cản truyền thống như thuế quan và những hạn chế về số lượng phần lớn đã được loại bỏ sau khi Hiệp định Chung về Thuế quan & Thương mại (GATT) và các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) ra đời.

Chính phủ các nước ngày càng nhận thức sự cần thiết bảo hộ lao động, bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ môi trường. Nhận thức này đã dẫn tới sự ra đời quy chế pháp lý mới về kỹ thuật để điều chỉnh ngày càng nhiều sản phẩm với các yêu cầu nghiêm ngặt hơn. Quy chế pháp lý này có thể và thường là hoàn toàn chính đáng song cũng lại tạo ra các rào cản đối với thương mại quốc tế.

Khi Cộng đồng Châu Âu (EC) chấp thuận Văn kiện Trắng vào năm 1985 về việc thành lập một thị trường nội bộ. 60% tất cả các biện pháp nhằm mục tiêu đều đề cập việc xóa bỏ các rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Tại Nhật, 80% khiếu nại đệ trình lên Thanh tra Thương mại của chính phủ là về những khó khăn trong việc xâm nhập vào thị trường Nhật liên quan tới các rào cản kỹ thuật đối với thương mại.

2. Các loại rào cản kỹ thuật thương mại

Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của WTO phân biệt 03 loại biện pháp kỹ thuật sau đây:

- Quy chuẩn kỹ thuật (technical regulations) là những yêu cầu kỹ thuật có giá trị áp dụng bắt buộc (các doanh nghiệp bắt buộc phải tuân thủ).

- Tiêu chuẩn kỹ thuật (technical standards) là các yêu cầu kỹ thuật được một tổ chức được công nhận chấp thuận nhưng không có giá trị áp dụng bắt buộc; và

- Quy trình đánh giá sự phù hợp của một loại hàng hoá với các quy định/tiêu chuẩn kỹ thuật (conformity assessment procedure)

3. Sự khác biệt giữa TBT và SPS là gì?

Liên quan đến các yêu cầu về đặc tính sản phẩm, quy trình sản xuất, đóng gói… bên cạnh các “biện pháp kỹ thuật” (TBT), các nước còn duy trì nhóm các “biện pháp kiểm dịch động thực vật” (SPS). Trên thực tế, có nhiều điểm giống nhau giữa hai nhóm biện pháp này. Tuy nhiên, WTO có quy định riêng cho mỗi nhóm, tập trung ở hai Hiệp định khác nhau (với các nguyên tắc khác nhau).

Tiêu chí để phân biệt hai nhóm biện pháp này là mục tiêu áp dụng của chúng:

- Các biện pháp SPS hướng tới mục tiêu cụ thể là bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ con người, vật nuôi, động thực vật thông qua việc đảm bảo vệ sinh thực phẩm và ngăn chặn các dịch bệnh;

- Các biện pháp TBT hướng tới nhiều mục tiêu chính sách khác nhau (an ninh quốc gia, môi trường, cạnh tranh lành mạnh…).

Việc phân biệt khi nào một yêu cầu là biện pháp kỹ thuật hay biện pháp vệ sinh dịch tễ là rất quan trọng đối với doanh nghiệp bởi mỗi loại biện pháp sẽ chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc và quy định khác nhau của WTO; trên cơ sở đó, doanh nghiệp biết bảo vệ quyền lợi của mình bằng phương pháp nào thì thích hợp.

Ví dụ 1: Các quy định về thuốc sâu

- Quy định về lượng thuốc sâu trong thực phẩm hoặc trong thức ăn gia súc nhằm bảo vệ sức khoẻ con người hoặc động vật: Biện pháp SPS;

- Quy định liên quan đến chất lượng, công năng của sản phẩm hoặc những rủi ro về sức khoẻ có thể xảy ra với người sử dụng: Biện pháp TBT.

Ví dụ 2: Các quy định về bao bì sản phẩm

- Quy định về hun khử trùng hoặc các biện pháp xử lý khác đối với bao bì sản phẩm (tẩy uế nhằm tránh lây lan dịch bệnh): Biện pháp SPS;

- Quy định về kích thước, kiểu chữ in, các loại thông tin về thành phần, loại hàng trên bao bì: Biện pháp TBT

4. Tác động, ảnh hưởng của các rào cản kỹ thuật tới thương mại quốc tế

Ngược lại với thuế quan (hàng rào thuế quan) vốn chỉ đơn giản nâng giá thành sản phẩm, hàng rào kỹ thuật có tác dụng hoàn toàn loại trừ sản phẩm khỏi thị trường nếu như các đòi hỏi không được đáp ứng.

Ảnh hưởng chính của các hàng rào quan thuế đối với thương mại là việc phân đoạn thị trường khi mà sản phẩm phải được chế tạo khác nhau cho mỗi nước hoặc mỗi nền kinh thế phù hợp với những đòi hỏi riêng biệt của mỗi nước đối với sản phẩm. Điều này làm tăng thểm chi phí bổ sung và ngăn cản cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng không được hưởng lợi ích có thể do tác dụng của quy mô kinh tế. Lại còn tệ hại hơn nữa là sự cần thiết phải lặp đi lặp lại việc thử nghiệm, chứng nhận và kiểm tra với cung một sản phẩm tại mỗi nước. Bởi vì chi phí cho các thủ tục đánh giá sự phù hợp thường là như nhau, bất kể số lượng sản phẩm phải giao là bao nhiêu, cho nên các công ty nhỏ chắc chắn bị loại trừ khỏi một số thị trường.

Các quy định về kỹ thuật, các tiêu chuẩn và các thủ tục đánh giá sự phù hợp còn có thể được sử dụng vào mục đích bảo hộ. Thậm chí khi chúng không được đặt ra nhằm mục đích trực tiếp là bảo hộ, thì ảnh hưởng của chúng vẫn thường rất nặng nề. Việc tuân thủ những đòi hỏi quốc gia về sản phẩm quốc gia đối với các nhà sản xuất trong nước là dễ dàng hơn so với các nhà sản xuất nước ngoài, và việc đánh giá sự phù hợp gặp ít rắc rói hơn khi diễn ra tại nước sản xuất và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của nước sản xuất.

Các biện pháp kỹ thuật thể hiện những mục tiêu khác nhau của mỗi nước (bảo vệ lợi ích công cộng, cam kết xã hội, thúc đẩy thương mại…) và cũng phản ánh những đặc trưng khác nhau của mỗi nước (đặc biệt về điều kiện địa lý, trình độ phát triển, nhu cầu thương mại và tài chính…). Vì thế, cho đến nay các nước thành viên WTO chưa thể thống nhất về một bộ các biện pháp kỹ thuật chung cho bất kỳ loại hàng hoá nào. Cũng vì lý do này mà Hiệp định TBT không phải là tập hợp các biện pháp kỹ thuật áp dụng trực tiếp cho từng loại hàng hoá mà chỉ đưa ra các nguyên tắc chung mà các nước phải tuân thủ khi thông qua và thực thi các biện pháp kỹ thuật đối với hàng hoá. Tuy nhiên, Hiệp định TBT cũng nhấn mạnh yêu cầu “hài hòa hoá” các biện pháp kỹ thuật giữa các nước theo hướng: Khuyến khích các nước thành viên tham gia vào quá trình hài hoà hoá các tiêu chuẩn và sử dụng các tiêu chuẩn đã được chấp thuận chung làm cơ sở cho các biện pháp kỹ thuật nội địa của mình; Khuyến khích các nước nhập khẩu thừa nhận kết quả kiểm định sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật áp dụng tại nước xuất khẩu. Việc hài hoà hoá các biện pháp kỹ thuật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hoá của doanh nghiệp và người sản xuất; người tiêu dùng cũng được lợi từ sự thống nhất này

5. Khi nào biện pháp kỹ thuật thương mại được coi là gây ra những "cản trở không cần thiết"?

Theo Hiệp định TBT, các biện pháp kỹ thuật mà mỗi nước thành viên WTO áp dụng không được gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại. Nguyên tắc này được hiểu theo cách thức khác nhau tuỳ thuộc vào loại biện pháp kỹ thuật được áp dụng. Cụ thể:

- Đối với các quy chuẩn kỹ thuật (bắt buộc) “Không gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại” được hiểu là:

+ Nhằm thực hiện một mục tiêu hợp pháp;

+ Không thắt chặt hoạt động thương mại ở trên mức cần thiết để đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách.

- Đối với các tiêu chuẩn kỹ thuật (không bắt buộc) Không có quy định rõ ràng để xác định vấn đề này. Tuy nhiên, hiện đang có xu hướng hiểu các điều kiện này tương tự như cách hiểu đối với các quy chuẩn kỹ thuật.

- Đối với quy trình đánh giá sự phù hợp “Không gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại” được hiểu là không chặt chẽ hơn mức cần thiết đủ để nước nhập khẩu có thể tin tưởng rằng sản phẩm liên quan phù hợp với các quy chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định.

Việc xác định một biện pháp kỹ thuật có gây ra “cản trở không cần thiết đến thương mại” hay không là rất phức tạp và cần sự hỗ trợ của các chuyên gia. Tuy nhiên, đây lại là điều có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp bởi nếu chứng minh được một yêu cầu kỹ thuật không đáp ứng được nguyên tắc này của WTO, doanh nghiệp có thể sẽ không phải tuân thủ các yêu cầu đó (nước áp dụng phải loại bỏ chúng theo các quy định của WTO).

Vì vậy nếu doanh nghiệp có được các thông tin liên quan, ví dụ biết rằng có biện pháp khác ít cản trở hơn mà vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát như biện pháp kỹ thuật đang áp dụng, doanh nghiệp có thể khiếu nại trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu hoặc thông báo cho Chính phủ nước mình để có cách xử lý thích hợp, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và biên tập)