Cách mạng Tháng Tám đã để lại cho cách mạng Việt Nam bài học gì về chỉ đạo chiến lược cách mạng

Trần Quốc Tuấn chỉ ra nguyên nhân căn bản làm nên thắng lợi của quân dân đời Trần thế kỷ XIII trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên là "vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà chung sức". Nguyễn Trãi từng nghe "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" đi tới đúc kết trong Bình Ngô đại cáo: "Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp. Hòa rượu cùng uống, binh sĩ một dạ cha con". Ông tổng kết: chở thuyền là dân, lật thuyền là dân. Thuyền bị lật mới biết sức dân như nước. Thời Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung trong các cuộc chiến đấu, lúc thắng lúc bại, nhưng rồi cuối cùng vẫn thắng vì dân ta đoàn kết và kiên gan.

Ngày 19/8/1945, sau cuộc mít-tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. Ảnh tư liệu

Từ khi Đảng ra đời, đoàn kết gắn với lãnh đạo tổ chức. Phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương những năm 1936 - 1939, bên cạnh những ưu điểm lớn, cũng để lại bài học kinh nghiệm quý báu về lòng dân và đoàn kết như nhận xét của Bác Hồ: "Nó dạy cho chúng ta rằng: Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng. Nó cũng dạy chúng ta rằng: Phải hết sức tránh những bệnh chủ quan, hẹp hòi". Với chính sách của Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, một luồng gió mới về đoàn kết được thổi đến. Những cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Bắc Sơn, Đô Lương cho thấy đồng bào ta quyết nối gót tổ tiên, dù hy sinh cũng phải phá tan xiềng xích, giành tự do độc lập. Nhưng việc lớn chưa thành mà nguyên nhân như Bác Hồ chỉ ra là không phải vì đế quốc mạnh, mà vì cơ hội chưa chín và dân ta chưa hiệp lực đồng tâm.

Tại Hội nghị Trung ương 8 [5/1941], Đảng ta và Bác Hồ quyết định "thay đổi chiến lược". Để phù hợp với tình hình mới và xuất phát từ thực tiễn, mà thực tiễn lớn nhất từ khi dân ta chịu ách áp bức một cổ hai tròng của Pháp - Nhật là yêu cầu, nguyện vọng bức thiết của nhân dân. Đảng ta nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp giành tự do độc lập. Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc.

Hội nghị Trung ương 8 đã đem lại sinh khí và nguồn năng lượng mới cho đại đoàn kết toàn dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi Pháp, Nhật, khôi phục độc lập tự do, Bác Hồ kêu gọi dân ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn. Nhấn mạnh làm thế nào có lợi cho việc đánh thắng Pháp - Nhật, Đảng ta xác định điều cốt yếu là phải có một phương pháp làm sao đánh thức được lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong nhân dân Việt Nam. Tên gọi của mặt trận phải thể hiện được một mãnh lực dễ hiệu triệu và có thể thực hiện được trong tình hình thực tiễn lúc bấy giờ, Bác Hồ quyết định tên gọi mặt trận đó là Việt Nam độc lập đồng minh, nói tắt là Việt Minh. Khẩu hiệu chính của Việt Minh là đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, giành lại độc lập.

Bài học xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, rút kinh nghiệm từ thực tiễn; xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân được Bác Hồ vận dụng khi thành lập, tổ chức và triển khai hoạt động của Mặt trận Việt Minh. Người xác định sự thống nhất và sức mạnh của Việt Minh không phải trên hình thức và lý thuyết, mà giá trị và hiệu quả là căn cứ vào hành động, mà hạt nhân là cứu quốc. Từ đó các tổ chức cứu quốc được thành lập như: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Văn nhân cứu quốc, Giáo viên cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Học sinh cứu quốc, Nhi đồng cứu vong. Đảng cũng chủ trương mở rộng tổ chức trong các tầng lớp khác có thể có ít nhiều tinh thần yêu nước, căm thù giặc Pháp - Nhật, thành thực cứu nước, cứu dân, muốn giải phóng dân tộc, như cai ký, đốc công, phú nông, địa chủ. Đó có thể là tổ chức Ủng hộ quỹ Việt Minh, hay Phú hào cứu quốc.

Việt Minh công bố 10 chính sách vừa ích quốc vừa lợi dân, có những điểm chung cho quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân, có những điểm đấu tranh cho quyền lợi của từng giai cấp. Vì thế Việt Minh được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh và phát triển rất mau, rất mạnh. Đảng cũng phát triển và giúp cho anh em trí thức tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam để thu hút thanh niên trí thức và công chức Việt Nam.

Nhận rõ vai trò, sức mạnh của đoàn kết, trong Kính cáo đồng bào [6/1941], Bác nhấn mạnh chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết. Người tha thiết kêu gọi: "Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm". Kết thúc bài thơ Mười chính sách của Việt Minh [1941], Người viết: "Khuyên ai xin nhớ chữ đồng, /Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh".

Giữa tháng 8/1945, lực lượng vũ trang và quần chúng nô nức, hừng hực khí thế khởi nghĩa. Đảng họp hội nghị toàn quốc ở Tân Trào khẳng định cơ hội tốt cho dân tộc ta giành độc lập đã tới và quyết định chương trình hành động. Đại hội quốc dân họp nhất trí chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua Chương trình của Việt Minh.

Khi thời cơ ngàn năm có một đã tới, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc đồng bào gia nhập Việt Minh, đoàn kết chung quanh Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhân dân cả nước triệu người như một dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhất tề nổi dậy từ khởi nghĩa từng phần đến phạm vi cả nước. Chỉ trong 15 ngày, với sự đoàn kết của toàn dân, cả lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, trong đó lực lượng chính trị của quần chúng đóng vai trò quyết định chủ yếu, tạo nên sức mạnh to lớn trong tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

Sức mạnh đoàn kết dân tộc trong lịch sử hào hùng của đất nước được phát huy làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; trở thành bài học quý giá làm nên thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội; đặc biệt là trong 35 năm đổi mới, đang hiện hữu trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19. Ðại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Từ Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc 80 năm trước [6/1941] đến Lời kêu gọi gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài của Tổng Bí thư về công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 cho thấy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được giữ gìn và phát huy. Cả nước đồng lòng chung sức, tất cả vì miền nam ruột thịt, tâm điểm là TP Hồ Chí Minh thân yêu, với tinh thần "thương người như thể thương thân", "lá lành đùm lá rách". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành năng động, sáng tạo của Chính phủ, cả hệ thống chính trị vào cuộc cùng sự chung sức đồng lòng của toàn dân, ủng hộ của bạn bè quốc tế, chúng ta tin tưởng sự nghiệp "chống dịch như chống giặc" nhất định sẽ thắng lợi trong một thời gian không xa.

PGS, TS Bùi Đình Phong
nhandan.vn

Cách đây 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân cả nước đồng loạt vùng lên tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày [từ ngày 14 đến 28-8-1945], cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay Nhân dân.

UBND Cách mạng Lâm thời do đồng chí Lê Tất Đắc làm Chủ tịch ra mắt tại thị xã Thanh Hóa ngày 23-8-1945 [tranh sơn dầu].

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi nổi bật và vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, là mốc son chói lọi trong lịch sử ngàn năm của dân tộc ta. Đó chính là thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần đấu tranh quật cường của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi đó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu mãi mãi soi sáng cho cách mạng Việt Nam trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó có các bài học chủ yếu là:

Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến.

Ngay từ khi Đảng ta mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Chính từ phương hướng đó, trong quá trình lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành chính quyền, xuất phát từ thực tế nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng đầu, Đảng đã linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa chống đế quốc và phong kiến, trong đó xác định đặt nhiệm vụ giành độc lập dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp thực hiện từng bước thích hợp ở từng giai đoạn, tùy thuộc vào tiến trình giải phóng dân tộc. Chính sự linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chống đế quốc và phong kiến trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã đáp ứng đúng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách của toàn dân tộc và đã giúp cho Đảng huy động được sức mạnh của toàn dân tộc cùng quyết tâm chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thứ hai, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc của khối liên minh công - nông, đấu tranh vì độc lập, tự do.

Thấm nhuần và phát triển sáng tạo luận điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi mới thành lập và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh cách mạng, Đảng đã rất chú trọng việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Từ năm 1930 đến năm 1941, qua nhiều chặng đường thể nghiệm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đặc biệt với sự ra đời của mặt trận Việt Minh [năm 1941] đã đảm bảo cho khối đại đoàn kết dân tộc được tạo dựng vững chắc và sâu rộng. Với chủ trương đúng đắn là “liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập...”1, cùng phương thức tổ chức đa dạng, phong phú, mặt trận Việt Minh đã trở thành hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp Nhân dân đứng vào hàng ngũ của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chính quyền về tay Nhân dân.

Thứ ba, kịp thời nắm bắt thời cơ, chủ động, sáng tạo tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng. Muốn có thời cơ thì phải biết tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến thì phải tận dụng và tranh thủ thời cơ, không được bỏ lỡ. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 1945 là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc nắm bắt thời cơ được thể hiện ngay khi Đảng đưa ra những dự báo về tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân. Khi phát xít Nhật nổ súng lật đổ thực dân Pháp ở Đông Dương [ngày 9-3-1945], với chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” [ngày 12-3-1945], Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng đã nhận định tình hình và dự đoán hai tình huống có thể diễn ra: thứ nhất là, quân đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; thứ hai là, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Và tình hình đã diễn ra đúng như dự đoán thứ hai của Đảng ta, ngày 14-8-1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện đã khiến cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê liệt. Đến đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn có khả năng thống trị như cũ được nữa, thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải hành động mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng không thể được bởi lúc này quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa đồng minh. Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền và chỉ từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức, phương pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tuyên truyền kết hợp với bạo lực cách mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi một cách nhanh, gọn, không đổ nhiều máu và thành công triệt để.

Thứ tư, xây dựng Đảng vững mạnh, trung thành vô hạn với dân tộc và giai cấp.

Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, lúc đó Đảng ta mới 15 tuổi, với gần 5.000 đảng viên, nhưng đã lãnh đạo toàn dân tộc làm cuộc cách mạng giành thắng lợi. Thành công đó là nhờ Đảng được xây dựng trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ sáng suốt, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đảng đã nắm vững thời cơ, kiên định, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, định ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. Đặc biệt, Đảng có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân; luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, được Nhân dân tin tưởng và đi theo. Nhờ đó, khi Đảng kêu gọi Nhân dân đứng lên làm cuộc cách mạng thì muôn người như một, đoàn kết thành sức mạnh vô cùng to lớn đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đưa dân tộc Việt Nam đứng vào hàng ngũ những dân tộc tiên phong trong đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.

Như vậy có thể khẳng định rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. 75 năm qua, kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công đến nay, cách mạng Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn, nhiều bước ngoặt và vượt qua nhiều thử thách lớn, giành được nhiều thắng lợi to lớn kể cả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại thực tiễn 75 năm qua kể từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến nay càng thấy rõ tầm vóc và giá trị to lớn những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám đối với những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Năm tháng có thể lùi xa, nhưng những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị, nhất là hiện nay khi nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới CNH, HĐH và hội nhập quốc tế với nhiều cơ hội, nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, hơn bao giờ hết, phải phát huy cao độ truyền thống yêu nước và cách mạng, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Trong mọi hoàn cảnh, phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới; không ngừng củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; chủ động, nhạy bén trong nắm bắt thời cơ vận hội phát triển đất nước; không ngừng nâng cao trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên để lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới.

Kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám vào đúng dịp Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa vừa tổ chức kỷ niệm 90 năm xây dựng và trưởng thành, ôn lại những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám và kinh nghiệm trong 90 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa càng làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thêm tự hào về sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, nhất là thành tựu của thời kỳ đổi mới quê hương, đất nước và kết quả nổi bật trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020 đã nâng cao hình ảnh, vị thế của Thanh Hóa. Có thể khẳng định rằng, tỉnh Thanh Hóa chưa bao giờ có tiềm lực và vị thế như ngày nay, đặc biệt, ngày 5-8-2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 58-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” càng mở ra thời cơ, vận hội mới, tạo động lực cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo sáng suốt và hy vọng vào tài khéo “điều khiển sắp đặt”2 của cấp ủy đảng, hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở để phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, chung sức, đồng lòng cùng khơi dậy khát vọng vươn lên hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2025 trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước - trở thành một cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc; năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại; năm 2045 là tỉnh giàu đẹp, văn minh và hiện đại, tỉnh phát triển toàn diện và kiểu mẫu của cả nước.

1.Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2000, t7, tr.149.

2.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2011, t5, tr.73.

Lương Trọng Thành

Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh

Video liên quan

Chủ Đề