Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích Lần lần, mấy năm qua

Tóm tắt nội dung tài liệu

ĐỀ  BÀI: Cảm nhận về hình tượng nhân vật Mị  trong hai đoạn văn sau “Lần lần,  
mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị  chết….. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này,  
Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Từ đó, bình luận ngắn gọn  
về tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài trong truyện

Bài văn mẫu

Lên Tây Bắc ngắm nhìn cảnh sắc núi non điệp trùng, mây cuộn mình trong sương, sương 
giăng mờ đỉnh núi. Đất trời ưu ái cho Tây Bắc vẻ đẹp miên viễn như huyền thoại, như thi  
ca. Nhưng ai biết đâu Tây Bắc cũng từng có những ngày chìm trong đêm đen của xã hội 
phong kiến – thực dân bao phủ. Cái xã hội ấy thật tàn bạo bởi nó đã bóp nghẹt sự  sống  
của con người, tước đoạt  ước mơ, giết chết khát vọng. Nhân vật Mị  trong truyện ngắn 
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một điển hình. Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết sâu  
sắc về  phong tục tập quán của đồng bào miền núi cao Tây Bắc. “Vợ  chồng A Phủ” 
[1952] chính là “món nợ ân tình” mà Tô Hoài phải trả cho đồng bào nơi đây bởi họ sống  
ân nghĩa ân tình quá đỗi, Tô Hoài không thể nào quên. Tác phẩm viết về những người dân  
lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam  
hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên đi tìm cuộc sống tự  do. Trong truyện, cô Mị  là  
một nhân vật đầy ám ảnh. Hoàn cảnh khốn khổ và tâm lý biến đổi theo thời gian của Mị 
để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người, đặc biệt là khi cô Mị “Ở lâu trong cái khổ” và từ 
trong “cái khổ” mà “phơi phới trở lại”, qua đây người đọc nhận ra tư tưởng nhân đạo cao  
quý của Tô Hoài gửi gắm trong thiên truyện.

Mỗi nhà văn đều có một tạng riêng. Nếu Nam Cao để lại dấu ấn trong lòng người bằng  
tiếng kêu thống thiết của kiếp người lầm than, đói khổ  lay lắt, bị  bần cùng hóa, tư  sản  
hóa mà ra; Thạch Lam gây ấn tượng bởi giọng trữ tình đượm buồn nhưng sâu xa, ý nhị về 
những miền đời bị xã hội bỏ quên; Nguyễn Tuân với câu từ trau chuốt, tỉ mỉ, hình ảnh góp 
nhặt từ một thời đại nào xa xưa lắm lung linh rực rỡ “đẹp đến toàn thiện toàn mỹ” trên 
trang văn… thì văn phong Tô Hoài nhẹ  nhàng, không lên gân, không “ngùn ngụt sát khí” 
nhưng đủ  sức bóp nghẹt tâm can người đọc, khiến người đọc rưng rưng nước mắt khi 
cám cảnh cùng cực của kẻ  bất hạnh, sống mỏi mòn nhưng không buông xuôi thụ  động 
như nhân vật trong cổ tích. Mị trong “Vợ chồng A Phủ” là cô gái vừa xinh đẹp như bông  
hoa rừng lại vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những phẩm chất tốt đẹp mà Mị  có, nếu sống 
trong một xã hội bình thường chắc chắn Mị sẽ được sống những tháng ngày an yên, hạnh  
phúc. Nhưng không, vì nghèo, vì món nợ ngày xưa bố mẹ Mị vay nhà thống lí Pá Tra cùng  
với phong tục hôn nhân kì lạ  của người Mông mà Mị  trở  thành “con dâu gạt nợ” nhà  
thống lí, vợ của A Sử. Trên danh nghĩa là dâu, nhưng thực tế Mị lại là con ở không công  
nhà thống lí. Tại ngôi nhà quyền lực mà u ám này, Mị bị bóc lột sức lao động, bị đầu độc  
tâm hồn bởi thần quyền và cường quyền, dần dần Mị  đã đánh mất chính mình, cô gái 
xinh đẹp yêu đời năm nào phải ngậm ngùi sống kiếp người đội lốt “con rùa nuôi trong xó  
cửa”.

Về làm vợ A Sử, con dâu thống lí Pá Tra ít lâu, Mị đã quen dần với cái khổ, từ một cô gái 
tràn đầy sức sống, khao khát yêu thương bỗng chai sạn tâm hồn, mất nhận thức về thời 
gian, không gian, cả nỗi khổ mà mình đang gánh chịu. Ở đoạn văn thứ nhất, Tô Hoài đưa  
người đọc vào không gian mà cô Mị đang sống: khổ cực, tăm tối. Ngay từ những dòng văn  
đầu, nhà văn đã để  lại  ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị  đã sống trong nhà thống lí:  
“Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Đó là  
quãng thời gian mà Mị  nếm trải khổ  đau, nếm trải sự  xói mòn trong tâm hồn của mình.  
“Mấy năm” là bao nhiêu năm? Bao nhiêu năm đã chầm chậm trôi qua mà Mị không hề nhớ 
rõ bởi bấy giờ Mị có còn biết khổ đau, bất hạnh, cơ  cực là gì nữa đâu? Cái khoảng thời 
gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà ngẫm lại đớn đau khó 
tả. Hóa ra Mị đã về làm dâu nhà thống lí “Mấy năm” rồi, “bố Mị” – người thân duy nhất 
của Mị cũng đã bỏ Mị mà đi, còn Mị thì đương sống trong tình trạng sống không ra sống 
mà chết thì Mị  chưa nghĩ đến. Nếu ngày trước Mị  đã từng có ý định ăn lá ngón tự  tử  vì  
không chịu đựng được nỗi khổ đau thì giờ phút này “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có  
thể  ăn lá ngón tự tử nữa”. Lá ngón – một loài lá độc mọc dại ở miền núi cao Tây Bắc – 
khi đi vào văn chương lại trở thành một chi tiết nghệ thuật nói lên thật nhiều thân phận 
con người. Phải khổ  đau, uất  ức lắm người ta mới tìm đến lá ngón để  mưu sinh. Lúc  
trước Mị định ăn lá ngón để chết, để khỏi phải đối mặt với những cơ khổ và bạo tàn nhà 
thống lí Pá Tra. Khi Mị muốn chết là lúc khát vọng được sống đúng nghĩa dâng trào. Còn  
bây giờ… “Mị  cũng không còn tưởng đến Mị  có thể  ăn lá ngón tự  tử  nữa”, nghĩa là Mị 
chấp nhận khổ  đau, cam chịu cảnh sống cực hơn là chết nhà thống lí. Mị  không muốn  
chết bởi Mị  đã chai lì, bởi Mị  đã “quen khổ  rồi”. Môi trường độc địa  ấy đã ngấm vào 
trong Mị, cái khổ  đã đồng hóa Mị, khiến Mị  quen dần và không một biểu hiện phản  
kháng. Ngay cả  Mị cũng “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, câu văn 
chất chứa nỗi xót xa cùng cực của Tô Hoài dành cho nhân vật của mình. Thân phận của 
Mị  chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”. Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải  
làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế,  
từ  hồi về  nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị  quanh quẩn trên nương “bẻ  bắp”,  
“hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Vậy 
có khác nào con ngựa, con trâu? Con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm” chứ đâu than 
khổ than cực?! Cô Mị cũng vậy, Mị tất bật với bao nhiêu công việc không lúc nào ngơi tay 
mà Mị đâu có lời nào vãn than. “Quen khổ”, cái thói quen ấy mới thật khắc khoải làm sao.  
Đoạn văn thứ  nhất đã mở  ra thân phận cam chịu, tủi nhục của Mị. Người đàn bà  ấy đã  
gồng gánh gian lao đi qua cơ cực mỏi mòn mà chẳng biết nặng là gì. Rõ là cái xã hội ấy 
thật bất nhơn, nó tước đoạt đi quyền hạnh phúc, đồng thời cắt đứt mạch sống của người  
con gái đương phơi phới xuân thì.

Những tưởng đời Mị sẽ không bao giờ “ngóc đầu” lên nổi. Nhưng không, bằng tấm lòng 
nhân đạo cao quý, Tô Hoài đã cho cô Mị “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” kia “phơi  
phới trở lại”. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc trong Mị không vĩnh viễn mất đi mà  
chỉ ngủ quên dưới lớp tro buồn, gặp cơ hội thuận lợi lập tức những h ạt m ầm  ấy l ại bén 
đất đâm chồi non khỏe khoắn. Mùa xuân Hồng Ngài có sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, có  
tiếng sáo gọi bạn tình và hơi rượu đưa Mị  trở  về  miền nhớ  xa xăm. Thuở   ấy, Mị  được  
uống rượu, thổi sáo, được đi chơi ngày Tết. Còn bây giờ Mị phải sống trong cảnh cá chậu 
chim lồng, mà cũng không hẳn bởi Mị đâu chỉ mất tự do như con chim mà còn bị hành hạ,  
bị  đánh đập tàn nhẫn. Khoảnh khắc “ngồi trơ  một mình giữa nhà” Mị  suy nghĩ biết bao  
điều. Từ lúc nãy Mị đã “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm 
Tết ngày trước”. Mốc thời gian “những đêm Tết ngày trước” là những đêm Tết trước khi 
Mị về làm dâu nhà thống lí. Thuở ấy Mị được tự do, được bay nhảy, được vui chơi rộn rã  
cùng bao người. Trong tình cảnh này, Mị  nhận ra “Mị  còn trẻ  lắm”. Từ  hồi về  làm dâu  
nhà Pá Tra đến giờ, đây là lần đầu tiên Mị nhận thức được sự trẻ trung vẫn còn nơi mình.  
Nét đẹp của cô gái Mông Tây Bắc vẫn còn phảng phất trên mặt Mị. Bao nhiêu người con  
gái Mông có chồng cũng được đi chơi ngày Tết, còn Mị  có già dặn gì đâu mà cam chịu  
cảnh ngồi trong buồng tối không được đi chơi. Dường như “trẻ lắm” trở thành điệp khúc 
Mị tự nhắc nhở mình dẫn đến hành động “muốn đi chơi”. Có thể  nói cô Mị  thực sự “nổi 
loạn” trong đêm tình mùa xuân vì từ trước đến nay Mị chưa từng muốn đi chơi. Cái ước  
muốn đơn giản bình dị   ấy đã bị  kìm lại trong Mị, hoặc Mị  không dám nói ra suốt mấy  
năm Mị làm dâu ở nhà thống lí Pá Tra. Mị nhận ra: “A Sử với Mị, không có lòng với nhau  
mà vẫn phải ở với nhau!”. Tại sao vậy? “Không có lòng” thôi thì hãy giải thoát cho nhau,  
cớ  gì ép buộc, gò bó nhau cho khổ  cực cuộc đời cô Mị? Một lần nữa hình  ảnh chiếc lá 
ngón xuất hiện trong tâm tưởng cô Mị: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ  ăn 
cho chết ngay, chứ  không buồn nhớ  lại nữa. Nhớ  lại, chỉ thấy nước mắt  ứa ra”. Khi đã 
thức tỉnh, lòng ham sống trở về với Mị, Mị lại muốn ăn lá ngón tự tử. Ở đây, người đọc 
nhận thấy có sự  đối lập rõ ràng. Sống và chết luôn nằm  ở  hai đối cực khác nhau, song 
khoảnh khắc này lại tương hỗ  thật nhiều trong cuộc  đời cô Mị. Mị  muốn chết càng  
chứng tỏ  Mị đã “sống lại” và tỉnh táo hơn bao giờ  hết. Chết để  được tự  do, được thanh 
thản, để  đỡ  phải khổ  trong chuỗi ngày kế  tiếp. Lần này Mị  muốn chết nhưng Mị không  
thể chết vì thực tại Mị đang ở trong buồng, kín mít, mà khát khao đi chơi cũng đang chiếm  
lĩnh tâm hồn Mị. Lá ngón trong lần xuất hiện này như  một giao điểm giữa những ngày 
thầm lặng, bị đối xử  tàn nhẫn, bị bóc lột về thân xác, áp chế về tinh thần với khát vọng  
sống, khát vọng hạnh phúc cuồng nhiệt như con sóng trong lòng cô Mị ngày xưa. Tóm lại, 
Mị đã tỉnh sau những tháng ngày u mê, ngủ say dưới lốt của một con rùa nuôi trong xó cửa  
không hi vọng, không mơ ước gì đến chuyện tương lai.

Hai đoạn văn mở  ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là “quen khổ  rồi”, hai là “phơi  
phới trở lại”, “muốn đi chơi”. Nếu ở đoạn văn thứ nhất người đọc nhận ra một cô Mị thụ 
động, cam chịu số phận thì đến đoạn văn thứ  hai, dấu  ấn về sự “nổi loạn”, bứt phá bắt  
đầu xuất hiện trong cô gái này. Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề  cho những phản kháng 
để giải thoát thân phận ở những diễn biến kế tiếp. Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài 
không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng xây. Tô Hoài 
đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện đại, không cam chịu đã 
vùng lên khát khao tìm hạnh phúc, tìm cuộc sống tự do. Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng 
chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người, “Văn học là 
nhân học” [M. Gorki]. “Vợ  chồng A Phủ” đã để  lộ  cái nhìn nhân đạo của Tô Hoài. Nhà  
văn đã phát hiện ra sự  trỗi dậy mạnh mẽ  của Mị, ngòi bút của ông luôn đau đáu tìm  
hướng dắt dìu cô Mị  từ  trong đau khổ  đứng lên hướng về  phía niềm vui, phía ánh sáng. 
Trước sau Tô Hoài vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy cũng không thể 
tiêu diệt hoàn toàn khát vọng cao cả  trong Mị. Vì vậy mà Mị  đã sống lại bằng tuổi trẻ, 
bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể 
chết được  ở  Mị, giúp Mị  tự  giải thoát khỏi cái chốn địa ngục trần gian để  làm lại cuộc 
đời, để  sống như một con người. Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống tối tăm, tủi nhục của  
người lao động nghèo vùng cao Tây Bắc trước Cách mạng, đồng thời đanh thép tố cáo tội 
ác, thế lực thực dân phong kiến, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, khẳng định sức sống tiềm tàng,  
mạnh mẽ, quá trình vùng lên giải phóng của người lao động Tây Bắc.

Bằng giọng văn mềm mại cùng lối kể  chuyện hấp dẫn, Tô Hoài đã đưa người đọc vào 
thế  giới Hồng Ngài xinh đẹp mà u buồn,  ở  đó có bóng dáng cô Mị  sống lầm lũi, bĩ cực  
đang lao đao đi tìm lẽ  sống cho riêng mình. Nhà văn đã phát huy biệt tài miêu tả  tâm lí  
nhân vật tinh tế để từ đó nhân vật của ông sống dậy, vùng vẫy, run rẩy phập phồng trên 
trang văn dày đặt ngôn từ. Trên hết vẫn là tư tưởng nhân đạo cao quý mà Tô Hoài đã gửi  
gắm. Chất nhân đạo góp phần làm nên tác phẩm văn học chân chính, có lẽ vì thế mà hơn  
nửa thế kỉ trôi qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” vẫn đủ  sức ám ảnh tâm trí bạn đọc. 
Và bao giờ cũng vậy, mỗi lần nghĩ về Tây Bắc hoặc có dịp lên Tây Bắc ngắm nhìn cảnh 
sắc thiên nhiên, lập tức bóng dáng vợ  chồng A Phủ  lại hiện ra trước mắt người đọc. 
Nhưng không phải một cô Mị tủi buồn và một chàng A Phủ bất lực khóc ròng trong đêm 
bị trói. Mà là một khung cảnh tươi sáng hơn, cô Mị với nụ cười tươi rói trên môi bởi cô đã  
cùng A Phủ sống những tháng ngày thật sự ý nghĩa, góp sức cho Cách mạng, giải phóng  
quê hương.

Page 2

YOMEDIA

Lên Tây Bắc ngắm nhìn cảnh sắc núi non điệp trùng, mây cuộn mình trong sương, sương giăng mờ đỉnh núi. Đất trời ưu ái cho Tây Bắc vẻ đẹp miên viễn như huyền thoại, như thi ca. Nhưng ai biết đâu Tây Bắc cũng từng có những ngày chìm trong đêm đen của xã hội phong kiến – thực dân bao phủ. Cái xã hội ấy thật tàn bạo bởi nó đã bóp nghẹt sự sống của con người, tước đoạt ước mơ, giết chết khát vọng. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một điển hình. Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của đồng bào miền núi cao Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” [1952] chính là “món nợ ân tình” mà Tô Hoài phải trả cho đồng bào nơi đây bởi họ sống ân nghĩa ân tình quá đỗi, Tô Hoài không thể nào quên. Tác phẩm viết về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên đi tìm cuộc sống tự do.

20-01-2020 478 9

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề