Cỏ lúa ngang nhau nghĩa là gì
1. Về sự tồn tại của trường ngữ nghĩa - lớp từ ngữ chỉ cây lúa và các sản phẩm từ lúa
2. Khái niệm trường nghĩa
3. Ngữ nghĩa của các phát ngôn tục ngữ phản ánh văn hoá lúa nước
Ngoài những từ trên, ta còn gặp các từ khác đều là sản phẩm của hạt lúa được tách từ hạt lúa ra: tấm, cám, mẳn, trấu: "Ra tay gạo xay ra cám"; "Trai đi giày đến đám, trai về nhà bốc cám rang"; "No cơm tấm, ấm ổ rơm"; " Trấutrong nhà, thả gà đi đâu". Hoặc ta bắt gặp những tổ hợp từ ghép: thóc lúa, thóc gạo, gạo thóc, lúa gạo, lúa má, cơm cháo, tấm cám: "Xay lúa Đồng Nai, thóc gạovề ngài, tấm cámvề tôi"; " Thóc lúavề nhà, lợn gà ra chợ". 3.2. Các từ gọi tên thực phẩm chế biến từ hạt lúa
Ngoài từ cơm, ta còn bắt gặp từ cháo. Cháo là món ăn nấu từ gạo nhưng loãng, có nhiều nước, thời gian nấu lâu hơn. Đặc biệt, vào những ngày đói kém, thiếu gạo, hay yếu mệt, người Việt thường nấu gạo thành cháo để ăn: " Cháonóng húp quanh, công nợ trả dần"; "Ăn cháođá bát"; "Cơm hàng cháochợ ai lỡ thì ăn". Cùng với cháo, trong các thứ quà bánh được chế biến từ gạo, phải kể đến bánh đúc. Bánh đúc là một món ăn ngon, bổ dưỡng của người Việt trước đây, được mọi người ưa thích. Người ta xay nhỏ gạo thành bột, ngâm vào nước, cho thêm ít nước vôi (hoặc hàn the), quấy đều và đun lên, sau đó đổ theo khuôn, đặt ở sàng: " Bánh đúcbày sàng". Khi ăn, bánh đúc được chấm với mắm tôm ngon đến mức: " Bánh đúcbẻ ba, mắm tôm quệt ngược cả nhà tan hoang"; "Muốn ăn no bánh đúc; ăn bánh đúc đục mặt". Từ gạo tẻ hoặc nếp có thể xay thành bột, chế biến thành hồ: "Có bột mới gột nên hồ"; làm hàng xáo, bánh dày: "Khôn khéo bánh dầy, vụng dại chày cối"; "Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu" (với nghĩa là vật dùng để đo lường đối với từng loại); "Hàng xay hàng xáoláo nháo ghẹo chồng con bồ còn thóc hết". Nếp (cũng là một loại gạo nhưng quý hơn) để gói bánh chưng, nấu xôi cúng vào dịp lễ tết, vì vậy câu: " Ăn chực đòi bánh chưng" hoặc " Ăn mày đòi xôi gấc" để nói đến người đi ăn chực không có quyền đòi hỏi vì phụ thuộc vào sự hảo tâm của người cho. Sau đây là một số câu tục ngữ phản ánh món ăn nấu từ gạo nếp: " Nếplộn lòn cha con đánh chén"; "Có xôinói xôidẻo, có thịt nói thịt bùi"; "Gần chùa chẳng được miếng xôi"; "Muốn ăn xôiông ơi xắn áo"; "Ăn xôichùa ngọng miệng"; "Cơm tẻ ăn no, xôi vòchả thiết". Các từ gọi tên các công cụ, hoạt động biến từ lúa, thóc thành gạo, như chày, cối, cối xay, dần, sàng: "Khôn khéo vá may, vụng về chày cối"; "Nhác đâm thì đổi chày, nhác xay thì đổi cối"; "Nói trặc họng cối xay"; "Hát khi xaylúa, múa khi tối trời"; " Xaylúa thì đừng ẵm em"; " Xaythóc có chàng, việc làng có mõ". Thậm chí, cối xay thóc được khái quát thành nhận thức: Trẻ con // (thì) học, cối // (thì) xay thóc. Nia, sàng, thúnglà vật dụng để sàng, để đựng và sảy gạo: "Bánh đúc bày sàng"; "Đá thúngđụng nia". Ca dao cũng có những câu dùng các từ nia, sàngđể chỉ dụng cụ sàng sảy gạo: "Ra đường ông nọ bà kia, về nhà chẳng khỏi cái nia cái sàng". 3.3. Các từ gọi tên các thời kì phát triển của cây lúa
3.4. Các từ gọi tên thời tiết, thời vụ gắn với việc trồng lúa
Kinh nghiệm về thời tiết mưa nắng, sấm, chớp, gió để biết trước mất mùa hay được mùa: a1) Về nắng, mưa: " Nắngtốt dưa mưatốt lúa"; "Mồng tám tháng tám không mưabỏ cả cày bừa mà nhổ lúađi"; "Mồng chín tháng chín không mưa, mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng, mồng chín tháng chín có mưa, mẹ con bán cả cày bừa mà ăn"; "Tháng Tám mưa trai tháng hai mưa thóc"; a2) Về sấm: "Tháng mười có sấmcấy trên nấm cũng có ăn"; "Lúa chiêm đứng nép đầu bờ, hễ nghe tiếng sấmphất cờ mà lên"; a3) Về gió: "Trời nồmtốt mạ, trời giá tốt rau"; "Gió đônglà chồng lúa chiêm, gió bấclà duyên lúa mùa". b. Người Việt trước đây trồng lúa chủ yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Về sau, do tiếp xúc với người Chiêm (hay Chăm) nên có thêm lúa chiêm (hay lúa chăm). Như vậy, hằng năm người Việt canh tác lúa vào hai mùa chính: lúa chiêm và lúa mùa. Tục ngữ đã ghi lại cách gọi tên lúa theo hai vụ này: " Chiêmxấp xới, mùađợi nhau"; " Chiêmbơ bãi, mùaphải thời", nghĩa là mạ chiêm thì có thể cấy chênh nhau về ngày nhưng mạ mùa thì phải đúng thời gian, vào một khoảng nhất định, đó là lúc có sao tua rua. Cũng chính vì vậy, sao tua rua là một trong những ngôi sao làm bạn với nhà nông: " Tua ruađi bắc mạ mùa". 3.5. Các từ gọi tên kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa nước
a. Các từ ngữ gọi tên thứ tự của việc canh tác lúa nước. Trong các từ được sắp xếp theo trình tự về tính cần thiết người ta quan tâm trước hết là nước. Nước là nguồn gốc của sự sống và nó cũng là nhân tố đầu tiên nói đến khi trồng lúa: "Nhất nướcnhì phân, tam cần,tứ giống"; "Nhất ruộng, nhì mạ,thứ ba canh điền"; "Nhất canh trì,nhì canh viên, ba canh điền"; " Cày cấy, bón phânphải kể anh phạt bờ cuốc gốc". b. Cách thức làm đất là phải chú trọng đất ải. Trong câu: " Đất không ải, rải thêm phân" là nói đến kinh nghiệm làm đất, nhưng câu: " Đất chổng lên, nền vạc phẳng, ải tảng băng, cấy sáng giăng, không phải thằng nào đấm" lại là chê cách làm đất, cách canh tác không đúng. Đất phải làm thật ải: " ảibởchồng con ở, ải sượngchồng con đi"; "Một cục đất ảibằng một bãi phân"; "Cày ảihơn rải phân". Cùng với việc làm ải đất còn phải chú trọng làm cho ngấu đất: " ải thâmkhông bằng dầm ngấu"; "Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì ngấu tươi", chú trọng cách thức làm đất để gieo mạ: "Ướp dưa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn trưa" . c. Cách thức làm cỏ: Nói đến làm ruộng là phải diệt sạch cỏ: "Ăn cơm làm cỏchẳng bỏ đi đâu"; "Một búi cỏ, một giỏ thóc"; "Một lượt cỏ, thêm một giỏ thóc". d. Làm ruộng là phải đi cày, đi bừa: " Càycạn khoẻ trâu, càysâu tốt lúa"; " Càygãi bừachùi, lúa thui thóc lép/ Càysâu bừakép, lúa đẹp bông sây"; " Càysâu làm đầu lúa tốt"; "Thứ nhất cày nỏthứ nhì bỏ phân". Sau đây là kiểu cày chưa đúng cách: " Cày sưabừa mệt"; "Cấy sáng cấy tối, gặp phải chân bừa dốitoi ăn". Cày bừa theo vụ mùa cũng khác nhau: "Chiêm đi đơn, mùa đi kép" . Làm ruộng là phải đi cấy. Việc đi cấy như một nhận thức tất yếu: "Chẳng cấylấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu có chữ. Đi cấy được phản ánh bằng những động tác khác nhau: "Cấy bằng mặt, gặt bằng đầu". Tục ngữ còn phản ánh cách thức cấy lúa: "Cấy thưathừa thóc, cấy dàythì cóc được ăn"; "Cấy cạnđẻ nhiều là điều nhà nông"; "Gié thừa cấy nỏ, chiêm thừa bỏ đi"; "Lúa mùa thì cấy cho sâu, lúa chiêm thì gửi cành dâucũng vừa"; "Vụ mùa cấy lúa cao, vụ chiêm cấy lúa trũng". Làm ruộng phải chú trọng đến việc tưới nước, cách thức tưới nước cho ruộng: "Đất điền đất thổ, ruộng cao tưới trước, ruộng thấp tưới sau"; " Không nướckhông phân chuyên cần vô ích"; "Làm ruộng thì phải đắp đìa, vừa dễ giữ nước, khi về dễ đi"; "Làm ruộng thì phải đắp bờ, may cờ thì phải viền đường mép". Công cụ để tưới nước ở những ruộng cao thấp khác nhau: "Cao bờ thì tát gàu dai, gàu sòngchỉ tát được nơi thấp bờ". Làm ruộng là nói đến công cụ gặt lúa khi vụ thu hoạch đến. Khi lúa chín, người nông dân thường dùng hái, liềm (còn gọi là A, vì nó có hình giống như chữ A): "Lúa phơi màu, trông nhau liềm hái"; "Cắt rạ thì dùng bằng A, quét nhà thì dùng bằng chổi"; "Đánh một lưỡi Abằng ba công việc lưỡihái". 3.6. Các từ gọi tên giá trị hàng hoá lấy thóc lúa làm đơn vị so sánh
Trước hết thóc gạo là thước đo mối quan hệ thân sơ giữa người với người trong cộng đồng: "Ông tiền ông thóc, ông cóc gì ai"; "Bà tiền bà thóc, bà cóc gì ai"; "Không tiền không gạomạnh bạo gì thầy"; "Không tiền không gạomạnh bạo xó bếp"; "Ngồi đống thóc, móc đống tiền". Thứ hai, nó là thước đo sự giàu nghèo: "Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc"; "Nhà giàu mua vải tháng ba, bán gạo tháng tám mới ra nhà giàu"; "Khen nhà giàu lắm thóc"; "Chứa tiền chứa thócthì giàu"; "Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc"; "Con học, thócvay". Thứ ba, thóc gạo là thước đo tính giá trị trong lời nói: "Lời nói quan tiền thúng thóc". Cuối cùng, thóc gạo còn là thước đo sự khôn dại: "Khôn như tiền không tiền cũng dại, dại như chó có lócũng khôn"; "Mạnh vì gạobạo vì tiền khôn ngoan dù mốc". 3.7. Các từ gọi tên đơn vị đong đếm đo lường thóc hoặc chứa đựng, lúa, gạo, cơm
Bên cạnh các vật đựng thóc lúa gạo, người Việt dùng vật đựng trong bữa ăn cơm bằng bát, đọi. Khác các nước sống bằng nghề săn bắt, thực phẩm chủ yếu là thịt, họ dùng công cụ trong bữa ăn là dao, đĩa, thìa, nĩa. Người Việt, trái lại thường dùng đũa, bát, chén, đọi, môi, thìa...,như: "Bớt bátcơm mặt còn hơn nợ nần"; "Có bátmát mặt; Lớn bátcơm to bó lúa"; "Một nút lạt một bátcơm"; "Cơm ba bátáo ba manh"; "Ngồi mát ăn bátđầy, lầy cầy không đầy bát"; "Sợ bátcơm đầy không sợ thầy to tiếng"; "Ăn cháo đá bát"; "Một quả cà bằng ba bát/ chénthuốc"; "Một chénthuốc ta bằng ba chénthuốc tàu"; "Lời nói đọimáu"; "Ba voi không được đọixáo". 4. Kết luận
Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt,Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 2. Nguyễn Thái Hoà (1982), Miêu tả và phân loại các khuôn hình tục ngữ Việt Nam , Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 3. Nguyễn Thái Hoà (1997), Tục ngữ Việt Nam - Cấu trúc và thi pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Hương (1999), "Đặc trưng ngữ nghĩa của nhóm tục ngữ chứa các từ chỉ quan hệ thân tộc", Tạp chí Ngôn ngữsố 6, tr.27-33. 5. Vương Trung Hiếu (1996), Tục ngữ Việt Nam chọn lọc, Nxb. Văn nghệ. 6. Nguyễn Xuân Kính (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 1, 2, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. Nguồn: hoidantochoc.org.vn (12/12/06) |