Cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân là gì

QPTD -Thứ Ba, 09/08/2011, 22:49 [GMT+7]
Cơ sở chính trị, pháp lý bảo đảm quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của người dân Việt Nam

Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta nhằm mục tiêu giành và bảo vệ độc lập dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Để đạt mục tiêu đó, việc xây dựng cơ sở chính trị, pháp lý bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, chỉ có trên cơ sở một chế độ chính trị - xã hội đặt lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc lên trên hết, với một Nhà nước pháp quyền, thì quyền làm chủ nhà nước và xã hội của người dân mới được bảo đảm vững chắc.

Không thể phủ nhận rằng, chế độ dân chủ, nhà nước pháp quyền, các giá trị xã hội [tự do, bình đẳng, bác ái] đã từng ra đời và tồn tại trong chủ nghĩa tư bản. Đó là thành quả đáng trân trọng của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và nhân dân lao động với giai cấp phong kiến. Tuy nhiên, do bản chất chính trị - kinh tế của chế độ dân chủ tư sản, các quyền con người trong chủ nghĩa tư bản luôn luôn là những quyền hạn hẹp.

Trong quá trình tìm đường cứu nước, vừa lao động vừa học hỏi, nghiên cứu lý luận và thực tiễn cách mạng các nước [trong đó, có nhiều nước tư bản phát triển, như Anh, Pháp, Mỹ], Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra rằng: Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục [tước đoạt] công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa1, nên Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc2. Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên hai tiêu chí cơ bản cho mô hình cách mạng của nhân dân ta là: Sau cách mạng, quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân lao động và dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật3, không phải cái tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam4. Người nhấn mạnh, quyền làm chủ nhà nước và xã hội là mục tiêu trực tiếp của cách mạng. Nhân dân được hưởng hạnh phúc và các quyền tự do, bình đẳng trong thực tế, là mục tiêu cuối cùng của cách mạng.

Gần 100 năm xâm lược nước ta, thực dân Pháp không hề thực hiện các giá trị tự do, bình đẳng, bác ái đối với nhân dân ta như Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân chủ của họ đã nêu ra từ năm 1789. Tiếp theo đó, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ kéo dài hơn 20 năm trên đất nước ta đã cướp đi quyền sống của hàng triệu người Việt Nam, để lại những hậu quả hết sức nặng nề trên đất nước ta và điều đó là một bằng chứng lịch sử hiển nhiên rằng: Bản tuyên ngôn độc lập [của Hoa Kỳ, năm 1776] với những lời bất hủ Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc đã không hề được tôn trọng. Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nhân dân ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã thiết lập nền độc lập của dân tộc Việt Nam và chế độ xã hội do nhân dân làm chủ.

Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà5 và Người khẳng định mạnh mẽ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập6. Tuyên ngôn độc lập là cơ sở chính trị, có giá trị đạo lý, pháp lý cơ bản và quan trọng nhất, xét cả trên phương diện quốc tế và quốc gia.

Ngay sau khi cách mạng thành công, các tổ chức, đoàn thể quần chúng ra đời trước cách mạng đã công khai hoạt động và trở thành những nhân tố quan trọng trong chế độ chính trị - xã hội mới, với tư cách là người đại diện của quần chúng tham gia vào việc quản lý Nhà nước và xã hội, vận động quần chúng tiến hành công cuộc kháng chiến - kiến quốc giành thắng lợi. Qua đó, nền tảng chính trị của chế độ xã hội do nhân dân làm chủ ngày càng được củng cố vững chắc.

Từ sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước đi lên CNXH, trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã hội và những biến động của tình hình quốc tế, Đảng ta đã phát hiện những sai lầm, khiếm khuyết trong mô hình cũ của CNXH, đề ra đường lối đổi mới và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong Cương lĩnh, khi đề cập tới bản chất xã hội XHCN, Đảng ta đặt lên hàng đầu tính chất xã hội: xã hội XHCN là xã hội Do nhân dân lao động làm chủ. Trên 20 năm đổi mới kể từ Đại hội VI đến nay, nền tảng chính trị - xã hội ta ngày càng được mở rộng và củng cố vững chắc. Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khoá IX] đã phát triển tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai7. Đối với các dân tộc thiểu số, Đảng ta nêu rõ: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển8; đối với các tôn giáo, Đảng ta khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta9.

Nền tảng chính trị - xã hội của chế độ xã hội ta có những nét đặc sắc về lịch sử, cơ cấu và mối quan hệ. Về mặt lịch sử, đó là thành quả đấu tranh lâu dài, anh dũng dựa trên truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Về cơ cấu, hệ thống chính trị của xã hội ta bao quát tất cả các lực lượng trong xã hội. Về mối quan hệ, các tổ chức của hệ thống chính trị thực hiện các chức năng của mình có sự phân công phối hợp; đồng thời, có chức năng phản biện xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Cơ sở pháp lý của quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của nhân dân ta là Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và hệ thống pháp luật đã được ban hành. Kế thừa các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, Hiến pháp 1992 đã quy định: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [Điều 2], Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng [Điều 50]; Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương [Điều 53]; Công dân có quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân [Điều 54]...

Dựa trên Hiến pháp, Quốc hội nước ta đã xây dựng một hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, bảo đảm quyền, lợi ích và nghĩa vụ của người dân. Chỉ tính từ năm 1986 đến nay, Nhà nước ta đã loại bỏ hàng trăm văn bản, hàng ngàn giấy phép lỗi thời, hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; sửa đổi và ban hành khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó có những Bộ luật và Luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm quyền và lợi ích của người dân, như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Báo chí xuất bản, Luật Khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo, Cho đến nay, Nhà nước ta đã ký kết và phê chuẩn hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, trong đó có hai công ước quy định bao quát các quyền của con người: Công ước quốc tế về quyền Dân sự chính trị [1966], Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá [1966]. Về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về quyền con người.

Trong công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền con người trên tất cả các lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, đã có những bước phát triển mang tính nhảy vọt về tư duy pháp lý, bao gồm cả lập pháp và hành pháp. Hiến pháp 1992 đã xác định: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, điều đó có nghĩa pháp luật giữ vị trí tối thượng; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp mở rộng các quyền và lợi ích, trong đó có các quyền về sở hữu, quyền tự do sản xuất, kinh doanh [trong nền kinh tế thị trường]; nâng cao quyền làm chủ, quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của người dân. Đây là những nét nổi bật có tính đột phá về tư duy pháp lý của Đảng ta. Bằng việc mở rộng và nâng cao quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân, chúng ta đã đạt được những thành quả hết sức to lớn: quyền làm chủ trực tiếp ở cơ sở của nhân dân ngày càng được phát huy, chức năng tư vấn, giám sát, đối thoại và phản biện xã hội ngày càng mở rộng...; Hoạt động của Quốc hội trong các nhiệm kỳ gần đây đã có sự đổi mới quan trọng; những phiên họp chất vấn các thành viên Chính phủ ngày càng đi vào thực chất và trở thành diễn đàn của nhân dân... Các thành tựu to lớn về dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam trong những năm qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, tại Giơ-ne-vơ [Thuỵ Sĩ], Báo cáo định kỳ trước Liên hợp quốc của Việt Nam đã được nhiều nước đánh giá cao bởi những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới, cũng như những cam kết rõ ràng đối với việc thúc đẩy quyền con người. Tuy nhiên, tại cuộc họp, có một số ý kiến dựa trên những thông tin sai lệch, phản ánh không khách quan tình hình dân chủ và đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Lợi dụng vào đó, các lực lượng thù địch trong và ngoài nước đã vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đòi Việt Nam xoá bỏ các quy định về tội gián điệp, tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong Bộ luật Hình sự, Đó là những đòi hỏi phi lý, không thể chấp nhận, xét cả về mặt pháp luật và thực tiễn.

Nói đến nhân quyền cũng như quyền làm chủ của nhân dân, theo quan niệm phổ biến của cộng đồng quốc tế, đó không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền của người dân, mà còn là trách nhiệm của người dân trong việc chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật; quyền và trách nhiệm quốc gia trong việc thực thi các công ước quốc tế về quyền con người mà mình đã tham gia; một mặt, phải tôn trọng các chuẩn mực quốc tế; mặt khác, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi nước. Cần lưu ý rằng, không phải tất cả các quyền con người đều là quyền tuyệt đối. Nhiều quyền, như: tự do tín ngưỡng - tôn giáo, tự do lập hội, tự do cư trú, hội họp hoà bình, là những quyền mà các quốc gia có thể đưa các hạn chế [bằng pháp luật], nếu đó là cần thiết cho an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng, hoặc các quyền và tự do của người khác10.

Quá trình lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nửa thế kỷ qua đã chứng minh rằng: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của người dân là mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng và Nhà nước ta. Với thế và lực của đất nước ta hiện nay, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và quyền làm chủ của người dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta nhất định sẽ đi đến thắng lợi hoàn toàn.

TS. CAO ĐỨC THÁI

Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quyền con người,

Học viện CT - HCQG Hồ Chí Minh

__________

1, 2,3, 4 - Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 247; tr. 270; tr. 280.

5, 6 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 557.

7 - ĐCSVN - Văn kiện hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa IX], Nxb CTQG, H.2003, tr. 12.

8 - ĐCSVN - Sđd, tr. 19.

9- ĐCSVN - Sđd, tr. 48.

10- Trung tâm nghiên cứu quyền con người - Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, H. 2002, tr. 259.

Video liên quan

Chủ Đề