Hướng dẫn 24 thức thái cực quyền
Thái cực quyền (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai Chi), là một môn võ thuật cổ truyền của Trung Quốc với đặc trưng là các động tác trường quyền uyển chuyển, chậm rãi kết hợp với điều hoà hơi thở. Show
Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]Về nguồn gốc Thái cực quyền, người ta có những luận điểm suy đoán khác nhau. Theo nhiều tài liệu, Thái cực quyền được ra đời cách đây hơn 300 năm do sự sáng tạo của một người họ Trần ở Trần Gia Câu, huyện Ôn, tỉnh Hà Nam, tên là Trần Vương Đình. Tại Việt Nam, cùng với sự phổ biến của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trong đó có nhắc tới việc Trương Tam Phong là người đầu tiên nghĩ ra Thái cực quyền, nhiều người tin rằng ông tổ của môn võ này chính là Trương Tam Phong. Tuy nhiên, với sự phổ biến của cuốn Thái cực quyền phổ do Vương Tông Nhạc đời Càn Long viết ra, và ảnh hưởng của cuốn sách này đến các hệ phái Thái cực quyền về sau, các học giả ngày càng nghiêng về khả năng Vương Tông Nhạc mới là người khai sáng Thái cực quyền[cần dẫn nguồn]. Các dòng phái chính[sửa | sửa mã nguồn]Ngũ đại danh gia[sửa | sửa mã nguồn]Theo tài liệu Thái cực quyền thường thức vấn đáp của tác giả Trương Văn Nguyên thì Thái cực quyền có 7 trường phái sau:
Tuy vậy, trong Thái cực quyền toàn tập, liệt kê 5 nhà lớn nhất:
Các chi phái Dương, Ngô, Võ và Tôn chỉ dạy một bài quyền và sau đó môn Thôi thủ (Tuishou). Riêng chi phái Trần có dạy thêm một bài thứ nhì bài Pháo trùy quyền, bổ túc cho bài thứ nhất. Các hệ phái khác[sửa | sửa mã nguồn]Bên cạnh 5 nhà nói trên, tại Trung Hoa (và cả Việt Nam) hiện còn lưu truyền nhiều hệ phái Thái cực quyền khác nhau, trong đó có nhiều hệ phái xuất xứ từ Thái cực quyền của dòng họ Trần, bao gồm:
Thái cực quyền đồ biểu[sửa | sửa mã nguồn]Để biết chi tiết đầy đủ các nhân vật Thái Cực quyền, xin xem bảng phả hệ các nhân vật Thái Cực quyền ở dưới, đồ biểu này chỉ có tính khái quát các xu hướng phân lưu cho đến nay. Huyền sử[sửa | sửa mã nguồn]Những nhân vật trong huyền sử của Thái cực quyền có thể kể đến Trương Tam Phong và Vương Tông Nhạc: Trương Tam Phong khoảng thế kỷ 12 Nội Gia Vương Tông Nhạc 1733-1795 Thái cực quyền kinh Thái cực quyền 5 nhà[sửa | sửa mã nguồn]Sự phân tách Ngũ đại lưu phái Thái cực quyền khởi nguồn từ Trần Vương Đình, có thể biểu kiến bằng sơ đồ sau: Trần Vương Đình 1600–1680 Dòng họ Trần đời thứ 9 Trần Thức Trần Trường Hưng 1771–1853 Dòng họ Trần đời thứ 14 Trần gia Lão giáTrần Hữu Bản khoảng năm 1800 Dòng họ Trần đời thứ 14 Trần gia Tân giá Dương Lộ Thiền 1799–1872 Dương ThứcTrần Thanh Bình 1795–1868 Trần gia Tiểu giá, Triệu Bảo giá Dương Ban Hầu 1837–1892 Dương gia Tiểu giáDương Kiện Hầu 1839–1917Võ Vũ Tương 1812–1880 Vũ/Võ/Lý/Hác Thức Ngô Toàn Hữu 1834–1902Dương Thiếu Hầu 1862–1930 Dương gia Tiểu giáDương Trừng Phủ 1883–1936 Dương gia Đại giáLý Diệc Dư 1832–1892 Ngô Giám Tuyền 1870–1942 Ngô Thức 108 thứcDương Thủ Trung 1910–1985Hác Vi Chân 1849–1920 Ngô Công Nghi 1900–1970Tôn Lộc Đường 1861–1932 Tôn Thức Ngô Đại Quỹ 1923–1972Tôn Tinh Nhất 1891–1929 Bài hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]Một số bài Thái cực quyền hiện đại, được giản hóa chiêu thức trên cơ sở sắp xếp lại đồ hình, lọc lược bớt các chiêu thức trùng lắp: Dương Trừng Phủ Trịnh Mãn Thanh 1901–1975 37 thức Thái cực quyềnTrung Hoa Quốc gia Thể Ủy 1956 Bắc Kinh 24 thức Thái cực quyền 1989 42 thức hay Toàn thức Tổng hợp kỹ thuật các dòng Trần, Dương, Tôn, Ngô giảng dạy trong môn Wushu Theo xu hướng tinh giản hóa các chiêu thức trùng lắp, hiện Dương thức Thái cực quyền cũng đã có một số bài còn gọn hơn, như bài Dương gia Thái cực quyền 10 thức và bài Dương gia Thái cực quyền 16 thức (cùng năm 1999), Vũ gia Thái cực quyền 46 thức (1996) v.v. Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]Tư tưởng[sửa | sửa mã nguồn]Tên gọi Thái cực quyền xuất phát từ tư tưởng Thái cực trong Chu dịch và học thuyết Âm Dương: Vô cực sinh Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng (hai chân, hai tay), Tứ tượng sinh Bát quái (tám tiết đoạn của tay chân gập duỗi được), Bát quái biến 64 quẻ... "Thái" ở đây nghĩa là to lớn, "cực" nghĩa là điểm bắt đầu. Thái Cực Đồ nói rằng: "Vô cực mà thái cực". Dùng lối thở bụng của Đạo gia, Thái cực quyền khiến người tập hô hấp thâm trường không bị rối loạn, sức mạnh gia tăng, hình thành một công phu đặc thù trong võ học. Các động tác của bài quyền uyển chuyển và mềm mại, trong nhu có cương, dung hợp với học thuyết kinh mạch âm dương. Thái cực quyền đã trở thành một phương pháp tập luyện trong ngoài tương ứng, hình thức và tâm ý kết hợp. Tính nhân văn[sửa | sửa mã nguồn]Nét chính yếu của Thái cực quyền là mô phỏng các hiện tượng tự nhiên. Nhiều chiêu thức trong bài hình ít nhiều mang đặc tính lãng mạn và nhân văn, ví dụ như: vân thủ (nghĩa là chiêu thức xoay tay như mây trắng xoay cuộn giữa trời xanh), bạch hạc lượng xí (con chim hạc vui múa), ngọc nữ xuyên thoa (thiếu nữ may áo), chuyển thân bài liên (lá sen lay động trước gió), như phong tự bế (như gió thổi làm cửa đóng), hải để châm (kim châm đáy bể) v.v. Thái cực quyền cũng là bộ môn ứng dụng nội công, rất thâm thúy và sâu sắc, với những tâm pháp mà các môn sinh phải thuộc nằm lòng để thi triển và ứng dụng hữu hiệu. Tuy chỉ có một bài quyền với các chiêu thức đơn giản nhưng người tập phải trải qua một tiến trình tập rất dài mới thấu hiểu lý pháp. Nguyên tắc tập luyện[sửa | sửa mã nguồn]Các nguyên tắc, yếu lĩnh tập luyện khai triển Thái cực quyền mỗi dòng phái có sự dị biệt ít nhiều, tuy nhiên thường có một vài nguyên tắc khá liên quan, thống nhất. Dưới đây là một số nguyên tắc của dòng Dương thức Thái cực quyền: -Tư thế:
-Thần thế:
-Vận động:
Bài hình[sửa | sửa mã nguồn]Từ giai đoạn đầu với 7 bài quyền và các công phu bổ trợ, nhiều bài kiếm, thương, đao do Trần Vương Đình đưa vào dòng họ, cho tới các đời sau đã hợp nhất lại thành 2 bài quyền là "Đệ nhất lộ" và "Pháo chùy quyền". Các lưu phái Thái cực quyền khác thuộc ngũ đại danh gia Thái cực (Trần, Dương, Ngô, Võ, Tôn), ngoại trừ Trần gia, về sau chỉ còn truyền lại 1 bài quyền. Từ thời điểm 1956, khi Dương gia Thái cực đã có bài 24 thức giản hóa, các dòng Trần gia, Võ gia..., bên cạnh bài gốc cũng đã đi theo xu hướng tinh giản các chiêu thức trùng lặp hoặc phức tạp, vốn không thuận tiện cho người già cả hay thể lực suy nhược, để hình thành thêm các bài rút gọn. Các bài Thái cực kiếm, Thái cực côn, Thái cực phiến (quạt) v.v phần lớn do các võ phái đời sau nghiên cứu, xiển dương và sáng chế bổ túc cho võ phái của mình. Chiêu thức trong bài Thái cực thường được chiết chiêu tập luyện song đối với kỹ pháp thôi thủ (đẩy tay), nhằm luyện cảm ứng lực để phản ứng với sự tấn công đối thủ trong thực chiến. Thôi thủ thường bao gồm Định bộ thôi thủ (thôi thủ với bộ pháp tĩnh tại) và Hoạt bộ thôi thủ (thôi thủ với bộ pháp linh hoạt). Bảng phả hệ nhân vật Thái Cực quyền[sửa | sửa mã nguồn]Tên Latin hóa của các nhân vật từ tiếng Trung Quốc nay đã phổ biến trên khắp thế giới và là từ khóa (key words) để tra cứu phim video clip trên www.youtube.com và tài liệu văn bản trên www.google.com, nếu gõ chữ Hán trên www.youtube.com sẽ không tìm ra được phim video clip, chữ Hán và tên Latin đều chỉ có thể sử dụng tra cứu văn bản trên www.google.com mà thôi.
1. Trần thức Thái Cực quyền (Chen family style Tai Chi ch’uan)[sửa | sửa mã nguồn]
Nhánh Trần Sở Nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Nhánh Trần Nhữ Tín[sửa | sửa mã nguồn]
1.a. Nhánh thứ nhất Trần Gia – Tân giá (Xin jia) truyền từ nhánh Trần Sở Nhạc =[sửa | sửa mã nguồn]
± Chen Boxiang 陈伯祥: Trần Bá Tường, truyền nhân đời thứ 19 của Tân giá Trần thức Thái Cực quyền.
1.b. Nhánh thứ hai Trần Gia – Lão giá (Lao jia) truyền từ nhánh Trần Nhữ Tín[sửa | sửa mã nguồn]
1.c. Nhánh thứ ba Trần Gia – Tiểu giá (Xiao jia) – từ nhánh Tân giá của Trần Hữu Bản (thuộc nhánh Trần Sở Nhạc)[sửa | sửa mã nguồn]
1. Đầu sáo quyền (Toutaoquan)còn được gọi Thập tam thức (Shisan Shi); Nhị sáo quyền (Ertaoquan); 2. Tam sáo quyền (Santaoquan) còn được gọi là Đại tứ sáo truỳ (Dasitaochui); 3. Tứ sáo quyền (Sitaoquan) còn được gọi là Hồng quyền (Hongquan), hay Thái tổ hạ nam đường (Tauzu Xia Nantang); 4. Ngũ sáo quyền (Wutao quan); 5. Trường quyền (Chang quan) còn được gọi là Nhất bách linh bát thức (Yibailingba Shi); 6. Pháo Chùy (Paochui); 7. Đoản đả (Duanda);
1. Tán thủ (Sanshou); 2. Kiều thủ (Jishou); 3. Lược thủ (Lueshou); 4. Sử thủ (Shushou), 5. Tam thập lục cổn diệt (Sanshiliu Gunyue);
1. Kim cang thập bát noa pháp (Jingang Shiba Nafa); 2. Đơn đao (Dandao); Song đao (Shuangdao); 3. Song kiếm (Shuangjian); Song giản (Shangjian); 4. Bát thương (Baqiang); Bát thương đối thích pháp (Baqiang Dui Cifa); 5. Thập tam thương (Shisanqiang); 6. Hoàn hậu Trương Dực Đức tứ thương (Huan Hou Zhang Tesi qiang); 7. Nhị thập tứ thương (Ershisiqiang Lianfa); 8. Bàng là bảng (Panluobang); 9. Xuân thu đao (Chungqiuđao); 10. Bàng la bảng luyện pháp (Panluobang Lianfa); 11. Tuyền phong côn (Xuanfenggun); 12. Đại chiến phác liêm (Dazhan polian). 1.d. Nhánh thứ tư Trần Gia – Đại giá (Da jia) truyền cho đến nay – từ nhánh Lão giá của Trần Trường Hưng (thuộc nhánh Trần Nhữ Tín)[sửa | sửa mã nguồn]
2. Dương thức Thái Cực quyền (Yang family style Tai Chi ch’uan)[sửa | sửa mã nguồn]
3. Vũ thức Thái Cực quyền (Wu family style Tai Chi ch’uan) – Hác thức Thái Cực quyền (Hao family style Tai Chi ch’uan)[sửa | sửa mã nguồn]
4. Ngô thức Thái Cực quyền (Wu family style Tai Chi ch’uan)[sửa | sửa mã nguồn]
5. Tôn thức Thái Cực quyền (Sun family style Tai Chi ch’uan)[sửa | sửa mã nguồn]
Thái cực quyền trên thế giới[sửa | sửa mã nguồn]Hiện tại Thái cực quyền được nghiên cứu, luyện tập, và phát triển ở nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Xingapo và nhiều nước phương Tây như Mỹ, Đức, Pháp, Canada v.v. Tác dụng[sửa | sửa mã nguồn]Dưỡng sinh[sửa | sửa mã nguồn]Thái cực quyền giúp luyện tập thở sao cho cung cấp đủ oxy cho cơ thể, rèn luyện phổi, đặc biệt là tăng thể xốp, tăng hấp thụ oxy và luyện cơ hoành (còn gọi là hoành cách mô). Khi tập, thái cực quyền giúp tối ưu hệ thống hô hấp cung cấp đủ oxy cho cơ thể làm cân bằng dinh dưỡng. Khi phổi được cung cấp đủ lượng oxy, các chất thừa sẽ bị đốt cháy hết tránh được các bệnh do thừa chất và vì vậy, có tác dụng giảm béo. Sự co duỗi của các động tác làm nên ứng suất cục bộ bên trong các mạch máu, giúp cọ rửa mạch máu một cách tự nhiên làm cho lưu thông máu huyết. Sự lưu thông máu huyết cũng đồng nghĩa với tăng dưỡng chất, tăng hiệu suất hoạt động các cơ quan và có nhiều bạch cầu đến hơn làm cho hệ thống miễn dịch được tăng cường khắp mọi nơi trong cơ thế nên kháng được các loại vi trùng, vi rút xâm nhập cơ thể. Khi tập thái cực quyền, có nhiều lúc người tập phải xoay chuyển cơ thể theo nhiều góc độ khác nhau và có những lúc chỉ phải đứng trên một chân. Điều này giúp cho rèn luyện phần tiền đình não, cơ quan giữ thăng bằng của cơ thể, làm giảm nguy cơ mất thăng bằng, chóng mặt, ngã té ở người lớn tuổi và tăng phản ứng nhanh cho mọi lứa tuổi. Tập Thái cực quyền trong trạng thái thư giãn thoãi mái về trí não và cơ thể làm cho trạng thái tinh thần của con người đạt đến điểm tối ưu, một trạng thái thư thái thật khó tả huyền bí (chỉ có tập rồi mới cảm nhận được). Làm cho giảm stress cân bằng tinh thần.[cần dẫn nguồn] Tự vệ[sửa | sửa mã nguồn]Những chiêu thức của Thái cực quyền cho phép một người nhỏ con hơn yếu hơn có thể đánh ngã người to lớn, hung dữ hơn theo các nguyên lý như "tá lực đả lực" (mượn sức đánh sức), "tứ lạng bát thiên cân" (bốn lạng đẩy ngàn cân) v.v. Dựa vào nguyên lý cơ học rất căn bản là cánh tay đòn, những vòng tròn, chuyển động xoay, cách di chuyển cơ thể và sử dụng lực một cách tối ưu, lợi dụng lực quán tính để hóa giải, phòng thủ hay tấn công nhưng mục đích chủ yếu chỉ nhằm làm đối phương té ngã, và bị phản đòn trở lại. Theo học thuyết Thái cực quyền, đòn tấn công mạnh bao nhiêu sẽ phải chịu đòn phản công nặng bấy nhiêu. Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
|