I. Truyền thống và nghệ thuật
đánh giặc của ông cha ta
1. Những yếu tố tác động đến việc hình thành nghệ thuật đánh giặc
- Về địa lí:
+ Nước ta có vị trí
chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á và biển Đông
+ Chúng ta có hệ
thống giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường không bảo đảm giao lưu
trong khu vực châu Á và thế giới thuận lợi
+ Đã từ lâu nhiều kẻ
thù đã nhòm ngó, đe doạ và tiến công xâm lược nước ta
- Về kinh tế:
+ Kinh tế nước ta là
tự cung tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chính, trong đó trồng trọt, chăn nuôi
là chủ yếu, trình độ canh tác thấp
+ Quá trình phát
triển, tổ tiên ta đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng dựng nước phải đi đôi với giữ
nước, thực hiện nhiều kế sách như: phú quốc, binh cường, ngụ binh ư
nôngTích cực phát triển sản xuất, chăn nuôi để ổn định, nâng cao đời sống
nhân dân, đồng thời phát huy tính sáng tạo trong lao động, tự tạo ra vũ khí để
chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc
- Về chính trị, văn hoá xã hội
+ Chúng ta có 54 dân
tộc anh em chung sống hoà thuận, đoàn kết
+ Dân tộc ta đã sớm
xây dựng được nhà nước, xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ chức ra quân đội để
cùng toàn dân đánh giặc, xây dựng và bảo vệ đất nước
+ Dân tộc ta đã xây
dựng được nền văn hoá truyền thống: đoàn kết, yêu nước thương nòi, sống hoà
thuận, thuỷ chung, lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng kiên cường,
bất khuất
+ Chúng ta đã xây
dựng được nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc với kết cấu vững chắc: đất nước
bao gồm làng, xã, thôn, bản và có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi làng, xã,
thôn bản có phong tục tập quán riêng.
2. Các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược
- Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên
+ Cuộc kháng chiến
chống quân Tần: trước năm 214 trước công nguyên, dưới sự lãnh đạo của vua Hùng
và vua Thục Phán
+ Cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược của Triệu Đà, từ năm 184 đến 179 trước công nguyên, do An
Dương Vương lãnh đạo
- Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và giữ
độc lập từ thế kỉ II trước công nguyên đến đầu thế kỉ X
+ Cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng vào năm 40, đã giành được độc lập và giữ vững được trong 3 năm.
+ Năm 248, cuộc khởi
nghĩa của bà Triệu Thị Trinh, nhưng bị thất bại
+ Năm 542 là cuộc
khởi nghĩa của Lý Bôn, giành thắng lợi, Lý Bôn lên ngôi vua với hiệu Lý Nam Đế
và đặt tên nước là Vạn Xuân
+ Ngoài ra còn có rất
nhiều các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu khác như: Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (năm
722), khởi nghĩa Phùng Hưng (từ năm 766 đến 791), khởi nghĩa Ngô Quyền .
- Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ X đến thế kỷ
XVIII
+ Kháng chiến chống
quân Tống lần thứ nhất của nhà Tiền Lê năm 981
+ Cuộc kháng chiến chống
Tống lần 2 (1075- 1077) của nhà Lý
+ Ba lần kháng chiến
chống quân Nguyên của nhà Trần ở thế kỉ XIII
+ Cuộc kháng chiến
chống quân Minh do Hồ Quí Ly lãnh đạo, cuối thế kỉ XIV
+ Khởi nghĩa Lam Sơn
và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo (1418 - 1427)
+ Khởi nghĩa Tây Sơn
và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 1785, kháng chiến chống quân xâm
lược Mãn Thanh 1788 1789
3. Nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta
- Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến
+ Ông cha ta luôn nắm
vững tư tưởng tiến công, tiến công liên tục, mọi lúc mọi nơi, từ cục bộ đến
toàn bộ, coi đó như là một qui luật để giành thắng lợi. Đây được xem như là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ nước.
+ Tư tưởng đó thể
hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách đánh,
phòng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp
làm cho địch suy yếu, tạo ra thế và thời cơ có lợi để tiến hành phản công, tiến
công.
- Về mưu kế đánh giặc
+ Mưu là để lừa địch,
đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở, chỗ ít phòng bị, làm cho chúng bị động, lúng túng
đối phó.
+ Kế là để điều địch
theo ý định của ta, giành quyền chủ động, buộc chúng phải đánh theo cách đánh
của ta
+ Kế sách đánh giặc
của ông cha ta không nhữngeosangs tạo mà còn rất mềm dẻo, khôn
khéo đó là biết tiến, biết thoái, biết công, biết thủ, biết kết hợp
chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao, tạo thế mạnh cho ta,
biết phá thế mạnh của giặc, trong đó tiến công luôn giữ vai trò quyết định.
+ Ông cha ta đã phát
triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một chiến trường, tạo ra một thiên
la, địa võng để diệt địch, làm cho đich đông mà lại hoá ít, địch mạnh mà hoá
yếu, đi dến đâu cũng bị đánh, luôn bị tập kích, phục kích, lực lượng bị tiêu
hao, tiêu diệt, rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan
- Nghệ thuật chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc
+ Đây là một trong
những nét độc đáo trong nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta, được thể hiệncả
trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Hễ kẻ thù động đến nước ta thì vua
tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước chung sức, trăm họ là binh, giữ vững
quê hương, bảo vệ xã tắc.
+ Nội dung cơ bản của
thực hiện toàn dân đánh giặc là: Mỗi người dân là một người lính, đánh giặc
theo cương vị, chức trách của mình. Mỗi thôn, xóm, bản, làng là một pháo đài
diệt giặc. Cả nước là một chiến trường, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân
liên hoàn, vững chắc làm cho địch đông mà hoá ít, địch mạnh mà hoá yếu, rơi vào
trạng thái bị động, lúng túng và bị sa lầy.
- Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống
mạnh:
+ Trên cơ sở điều
kiện thực tiễn chiến tranh ở nước ta: luôn phải chống lại các đội quân xâm lược
có quân số, vũ khí, trang bị lớn hơn ta rất nhiều lần thì đây là nét đặc sắc và
tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta.
+ Nghệ thuật lấy nhỏ
đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản phẩm của lấy thế
thắng lực. Ông cha ta đã sớm xác định đúng về sức mạnh trong chiến tranh đó
là: sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, chứ không đơn thuần là sự so sánh, hơn
kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến.
- Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính
trị, ngoại giao và binh vận
+ Mặt trận chính trị
nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, qui tụ sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc, là cơ sở tạo ra sức mạnh quân đội
+ Mặt trận quân sự là
mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá huỷ phương tiện
chiến tranh của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà,
tạo thế cho các mặt trận khác phát triển
+ Mặt trận ngoại giao
có vị trí rất quan trọng, đề cao tính chính nghĩa của nhân dân ta, phân hoá, cô
lập kẻ thù, tạo thế có lợi cho cuộc chiến. Mặt khác, mặt trận ngoại giao kết
hợp với mặt trận quân sự, chính trị tạo ra thế có lợi để kết thúc chiến tranh
càng sớm càng tốt.
+ Mặt trận binh vận
để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần quan trọng để hạn chế thấp
nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh
- Về nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn
+ Thời nhà Lý: trận
phòng ngự sông Cầu (Như Nguyệt), đây là điển hình về kết hợp chặt chẽ hai hình
thức tác chiến phòng ngự và phản công trên cả quy mô chiến lược, chiến thuât.
Kêt quả không những chặn đứng được 30 vạn quân Tống mà cong làm thất bại ý đồ
đánh nhanh thắng nhanh để chiếm Thăng Long của chúng, khiến chúng phải chuyển
từ thế chủ động sang thế bị động phòng ngự
+ Thời nhà Trần:
chống giặc Nguyên lần 2, Trần Quốc Tuấn đẫ tổ chức một cuộc rút lui chiến lược,
làm thất bại kế hoạch vây hợp của địch. Trong cuộc truy đuổi, quân Nguyên còn
vấp phải một cuộc chiến tranh của toàn dân Đại Việt. Do vậy, quân Nguyên bị sa
vào tình trạng muốn đánh mà không đánh được, lực càng yếu, thế càng suy, tạo
điều kiện cho ta phản công.
+ Thời hậu Lê: khởi
nghĩa Lam Sơn thắng lợi, là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tổ
chức và tiến hành các trận đánh quyết định giữ một vai trò rất quan trọng.
Nguyễn Trãi và Lê Lợi chủ trương lánh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh nơi vững
chắc, đánh nơi sơ hở
+ Nghệ thuật quân sự
của Nguyễn Huệ và quân Tây Sơn được biểu hiện tập trung nhất, rực rỡ nhất trong
việc tổ chức và thực hành các trận quyết chiến chiến lược. Nguyễn Huệ đã thiết
lập một hệ thống tổ chức hành quân đạt hiệu quả tối đa, ông chú trọng hợp vây
chiến dịch, chiến thuật và tiến công địch bằng các đòn thọc sâu hiểm hóc.
II. Nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có
Đảng lãnh đạo
1. Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự Việt Nam
- Truyền thống đánh giặc của tổ tiên
+ Trải qua mấy nghìn
năm chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của tổ tiên đã hình thành và không
ngừng phát triển, trở thành những bài học quí giá cho các thế hệ sau. Những
kinh nghiệm đó là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kế thừa, vận
dụng và phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và trong công
cuộc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa Mác Lênin về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
+ Đảng cộng sản Việt Nam
lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hành động. Học thuyết chiến tranh, quân đội, bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa và kinh nghiệm nghệ thuật quân sự được đúc rút qua các cuộc chiến
tranh do C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin tổng kết, là cơ sở để Đảng ta vận dụng,
định ra đường lối quân sự trong khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng ở
Việt Nam
- Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
+ Tư tưởng quân sự Hồ
Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, vận dụng
lí luận Mác Lênin về quân sự, kinh nghiệm của các nước trên thế giới vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho sự hình thành và phát triển nghệ thuật
quân sự Việt Nam. Hồ Chí Minh và Đảng đã đề ra phương châm chỉ đạo chiến tranh,
phương thức tác chiến chiến lược, nắm bắt đúng thời cơ, đưa chiến tranh Việt Nam kết thúc
thắng lợi
2. Nội dung nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo
- Chiến lược quân sự: Chiến lược quân sự là tổng thể
phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định để ngăn ngừa và sẵn sàng
tiến hành chiến tranh (xung đột vũ trang) thắng lợi, là bộ phận hợp thành (quan
trọng nhất) có tác dụng chủ đạo trong nghệ thuật quan sự Việt Nam. Nội
dung chủ yếu:
+ Xác định đúng kẻ thù, đúng đối tượng tác chiến:
Đây là vấn đề quan trọng của chién tranh cách mạng, nhiệm vụ của chiến lược
quân sự phải xác định chính xác để từ đó có đối sách và phương thức đối phó
hiệu quả nhất
+ Đánh giá đúng kẻ thù: Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng mạnh, yếu của kẻ thù.Từ những nhận định
đúng đắn vvề kẻ thù đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta quyết tâm đánh Pháp,
Mĩ và biết thắng Pháp, Mĩ
+ Mở đầu và kết thúc chiến tranh đúng lúc: Đây là
một vấn đề mang tính nghệ thuật cao trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nhằm
giành thắng lợi trọn vẹn nhất những hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất
+ Phương châm tiến hành chiến tranh: Đảng ta chỉ
đạo tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc, đánh giặc
toàn diện trê tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, văn hoá, ngoại giaotrong
đó, mặt trận quân sự giữ vai trò quyết định nhất. Đảng ta chỉ đạo tiến hành
chiến tranh với tinh thần tự lực cách sinh, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là
chính
+ Phương thức tiến hành chiến tranh: Cuộc chiến
tranh chống quân xâm lược của nước ta là chiến tranh cách mạng, chính nghĩa và
tự vệ. Do đó Đảng ta chỉ đạo: phương thức tiứn hành chiến tranh là chiến tranh
nhân dân kết hợp giữa địa phương với các binh đoàn chủ lực , kết hợp chặt chẽ
tiến công địch bằng hai lực lượng chính trị, quân sự
- Nghệ thuật chiến dịch: Nghệ thuật chiến dịch, lí luận và
thực tiễn chuẩn bị, thực hành chiến dịch và các hoạt động tác chiến tương
đương; bộ phận hợp thànhcủa nghệ thuật
quân sự, khâu nối liền giưũa chiến lược quân sự và chiến thuật. Sự hình thành
chiến dịch và phát triển của nghệ thuật chiến dịch, bộ phận hợp thành của nghệ
thuật quân sự Việt Nam
là toàn diện, tập trung vào những vấn đề sau:
+ Loại hình chiến dịch:
·Chiến dịch tiến công (chiến dịch Điện Biên Phủ
năm 1954, chiến dịch tiến công Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975).
·Chiến dịch phản công: Chiến dịch phản công VIệt
Bắc năm 1947, chiến dịch phản công đường số 9- Nam Lào năm 1971
·Chiến dịch phòng ngự: chiến dịch phòng ngự Quảng
Trị năm 1972
·Chiến dịch phòng không: chiến dịch phòng không
Hà Nội năm 1972
·Chiến dịch tiến công tổng hợp: chiến dịch tiến
công tổng hợp khu 8
+ Qui mô
chiến dịch: trong kháng chiến chống Pháp và Mĩ, qui mô chiến dịch được phát
triển cả về số lượng và chất lượng
+ Nghệ
thuật chiến dịch là cách đánh chiến dịch:
·Thời kì đầu, chúng ta có nghệ thuật chon khu vực
tác chiến chủ yếu, nghệ thuật chuẩn bị thế trận chiến dịch, nghệ thuật tập
trung ưu thế lực lượng bảo đảm chắc thắng trận mở màn chiến dịch, nghệ thuật xử
trí chính xác các tình huống trong tác chiến chiến dịch
·Trong chiến dịch Điện Biên Phủ: Xác định đúng
phương châm tác chiến chiến dịch, thay đổi phương châm tác chiến từ đánh
nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc; Xây dựng thế trận chiến dịch
vững chắc, thực hiện bao vây rộng lớn, chia cắt và cô lập ĐBP với các chiến
trường khác; Phát huy cao nhất sức mạnh tác chiến hợp đồng các binh chủng, tập
trung ưu thế binh hoả lực đánh dứt điểm từng trận then chốt; Vận dụng sáng tạo
cách đánh chiến dịch, dựa vào hệ thống trận địa, thực hành vây hãm kết hợp với
đột phá, kết hợp đánh chính diện với các mũi thọc sâu, luồn sâu. tạo thế chia
cắt địch
·Trong kháng chiến chống Mĩ: Nghệ thuật chiến
dịch đã nâng lên một tầm cao mới. Nghệ thuật chiến dịch đã chỉ đạo chiến thuật
đánh bại tất cả các chiến lược quân sự, biện pháp, thủ đoạn tác chiến của quân
Mĩ, Nguỵ và chư hầu. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975, nghệ thuật chiến dịch có buớc nhảy vọt, được thể hiện: nghệ thuật tạo ưu
thế lực lượng, bảo đảm đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức manhj áp đảo
địch trong chiến dịch; Nghệ thuật vận dụng sáng tạo cách đấnh chiến dịch (lần
lượt và đồng loạt); Nghệ thuật kết hợp tiến công với nổi dậy, phối hợp tác
chiến 3 thứ quân.
- Chiến thuật: Chiến thuật là lí luận và thực tiễn về tổ
chức và thực hành chiến đấu của phân đội, binh đội, binh đoàn lực lượng vũ
trang, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nội dung của chiến thuật được
thể hiện:
+ Vận dụng các hình thức chiến thuật vào trong
các trận chiến đấu
·Giai đoạn đầu của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mĩ, chiến thuật thường vận dụng là tập kích, phục kích, vận động tiến công
trong đó, phục kích có lợi hơn tập kích
·Các giai đoạn sau của 2 cuộc kháng chiến, bộ đội
ta đã trưởng thành, không những giỏi vận động chiến (đánh địch ngoài công sự)
mà còn từng bước vận dụng công kiên chiến (đánh địch trong công sự)
·Giai đoạn cuối của 2 cuộc kháng chiến, do yêu
cầu của chiến lược, chiến dịch, chiến thuật phòng ngự xuất hiện, ngoài ra còn
có các hình thức chiến thuật truy kích, đánh địch đổ bộ đường không
+ Quy mô
lực lượng tham gia trong các trận chiến đấu: Giai đoạn đầu của 2 cuộc kháng
chiến, lực lượng tham gia chủ yếu trong biên chế và được tăng cường một số hoả
lực như súng cối 82mm, DKZCác giai đoạn sau, quy mô lực lượng tham gia các
trận chiến đấu ngày càng lớn, có sự hiệp đồng binh chủng giữa bộ binh, xe tăng,
pháo binh, phòng không Hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ngày càng nhiều
+ Cách đánh:
Là nội dung quan trọng nhất của lí luận chiến thuật. Mỗi binh chủng, mỗi hình
thức chiến thuật đều có những cách đánh cụ thể, phù hợp với đối tượng và địa
hình. Cách đánh của ta thể hiện tính tích cực, chủ động tiến công, bám thắt
lưng địch, chia địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt. Kết hợp chặt chẽ giữa
hành động tiến công và phòng ngự của 3 thứ quân để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên
giao
III. Vận dụng một số bài học
kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kì mới và trách
nhiệm của sinh viên
1. Quán triệt tư tưởng tích cực tiến công
- Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, nghệ thuật
quân sự của cha ông ta trước đây luôn nhấn mạnh tư tưởng tích cực, chủ động
tiến công địch.
- Ngày nay, kẻ thù của chúng ta là chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, có ưu thế và tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học
công nghệ mạnh, trên cơ sở đánh giá đúng mạnh yếu của địch và ta, chúng ta phải
biết phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt mọi hình thức và
qui mô tác chiến, mọi cách đánh mới có thể tiến công địch liên tục, mọi lúc,
mọi nơi. Không chỉ tiến công trên mặt trận quân sự mà phải tiến công toàn diện
trên mọi mặt trận, đặc biệt là mặt trận chính trị, binh vận, thực hiện mưu
phạt công tâm, đánh vào lòng người, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh
2. Nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc
- Đây là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ
mới từ nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc. Trong hoạt đọng tác chiến
của các lực lượng vũ trang, kết hợp đánh phân tán với đánh tập trung, kết hợp
đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn. Mỗi lực lượng, mỗi thứ quân dều có vị trí, tác
dụng và có những qui luật hoạt động riêng. Vì vậy, cần phải phối kết hợp tác
chiến của các lực lượng, các thứ quân cả về chiến lược cũng như trong chiến
dịch và trong chiến đấu. Có kết hợp được như vậy mới phát huy được uy lực của
mọi vũ khí từ thô sơ đến hiện đại, làm cho binh lực địch bị phân tán, dàn mỏng,
khiến cho chúng đông mà hoá ít, mạnh mà hóa yếu và luôn bị động đối phó, trên
cơ sở đó thực hiện những đòn đánh quyết định, tạo sự thay đổi trên chiến trường
có lợi cho ta.
3. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mưu kế
- Dùng lực phải dựa vào thế có lợi, dùng đúng
nơi, đúng lúc mới đạt hiệu quả cao, lực nhỏ hoá lớn, yếu hoá mạnh
- Dùng thế, tạo lực để sẵn sàng đánh địch khi có
thời cơ có lợi nhất
- Đặt thế, lực voà đúng thời cơ có lợi thì sức
dùng một nửa mà công được gấp đôi
- Muốn đánh thắng còn phải dùng mưu kế, hạn chế
cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta. Luôn chú ý lừa địch và giữ bí mật,
bất ngờ. Đánh bất ngờ, tạo hiệu quả diệt địch, nhất là trong điều kiện lực
lượng quân địch mạnh, có vũ khí công nghệ cao.
- Nghệ thuật quân sự của ta còn phải biết đánh
giá đúng và triệt để khai thác các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Đó
là nghệ thuật nắm bắt và phát huy sức mạnh của thời đại, phát huy tiềm năng,
thế mạnh của đất nước, con người Việt Nam, trong đó cần đặc biệt chú trọng
nhân hoà
- Chỉ có kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời,muư và
các yếu tố khác ta mới có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù có
kinh tế, quân sự mạnh khi chúng liều lĩnh xâm lược nước ta
4. Quán triệt tư tưởng lấy ít đánh nhiều, biết tập trung ưu thế lực
lượng cần thiết để đánh thắng địch
- Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc, cha ông ta luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn hơn nhiều lần. Đứng
trước thực tế đó, ông cha ta đã sáng tạo ra nghệ thuật lấy ít địch nhiều,
nhưng biết tập trung ưu thế lực lượng trong những thời điểm quan trọng để đánh
thắng quân xâm lược
- Ngày nay, vận dụng tư tưởng lấy ít địch nhiều,
ta phải phát huy được khả năng đánh giặc của toàn dân, của cả 3 thứ quân, tạo
ra sức mạnh tổng hợp hơn địch để đánh thắng địch trong mọi tình thế
5. Kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với bảo vệ vững chắc các mục
tiêu
- Từng trận đánh, từng chiến dịch có mục đích cụ
thể khác nhau, nhưng mục đích chung nhất của mọi hoạt động tác chiến trong
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là tiêu diệt lực lượng địch phải đi đôi với bảo vệ
vững chắc mục tiêu.
- Muốn giành thắng lợi triệt để, chúng ta phải
kết hợp đánh tiêu hao với đánh tiêu diệt lớn quân địch. Đánh tiêu hao rộng rãi
bằng đánh nhỏ, đánh vừa của chiến tranh nhân dân địa phương sẽ tạo điều kiện
cho tác chiến tập trung của chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, thực hiện
đánh lớn, tieu diệt quân địch lớn
- Đi đôi với tiêu hao, tiêu diệt lực lượng của
địch, phải boả vệ vững chắc mục tiêu của ta, là vấn đề có tính qui luật trong
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
6. Trách nhiệm của sinh viên
- Nghiên cứu nghệ thuật quân sự của các thế hệ
cha ông ta, chúng ta có quyền tự hào về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường
trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ non sông đất nước
- Ngày nay, đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng kẻ
thù còn đó, chúng đang tìm mọi thủ đoạn để xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta
- Do đó, trách nhiệm của sinh viên rất nặng nề
đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước hết mỗi sinh viên cần phát
huy tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ học
tập, đặc biệt không ngừng bồi đắp lòng yêu quê hương, đất nước. Mặt khác, phải
phấn đấu, tu dưỡng để trở thành những công dân tốt, sẵn sàng làm nhiệm vụ khi
Tổ quốc cần.