Khái quát về văn học trung đại Việt Nam

Bạn đang quan tâm đến Khái quát văn học trung đại việt nam lớp 11 phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Luyện thi online miễn phí, luyện thi trắc nghiệm trực tuyến miễn phí, trắc nghiệm online, Luyện thi thử thptqg miễn phí Phebinhvanhoc.com.vn Sơ đồ tư duy Khái quát văn học Việt Nam từ the kỉ 10 đến the kỉ 19, Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam, Tóm tắt các giai đoạn văn học Việt Nam, Các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Văn học trung đại Việt Nam, So sánh văn học trung đại và văn học hiện đại, Thuyết minh về văn học trung đại Việt Nam, Các thể loại văn học trung đại

ngữ văn 10 Sơ đồ tư duy Khái quát văn học Việt Nam từ the kỉ 10 đến the kỉ 19, Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam, Tóm tắt các giai đoạn văn học Việt Nam, Các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Văn học trung đại Việt Nam, So sánh văn học trung đại và văn học hiện đại, Thuyết minh về văn học trung đại Việt Nam, Các thể loại văn học trung đại

A. Khái quát kiến thức

I. Các thành phần chủ yếu của nền văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

1. Văn học chữ Hán – Nền văn học viết bằng chữ Hán , xuất hiện sớm , tồn taị trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại.

Bạn đang xem: Khái quát văn học trung đại việt nam lớp 11

Bạn đang xem: Khái quát văn học trung đại việt nam lớp 11- Thể loại : Tiếp thu thể loại của văn học Trung Quốc: Chiếu, biểu, hịch, cáo, truyền kì, tiểu thuyết chương hồi …2 . Văn học chữ Nôm – Sáng tác bằng chữ Nôm – ra đời muộn hơn văn học chữ Hán – Thể loại : Chủ yếu là thơ, ít có tác phẩm văn xuôi , phú , văn tế …

II. Các giai đoạn phát triển của

văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

1.Giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV:

a. Hoàn cảnh lịch sử: Bảo vệ tổ quốc, lập nhiều kì tích trong kháng chiến chống ngoại xâm, chế độ phong kiến Việt Nam phát triển đi lên.b. Nội dung:Yêu nước với âm hưởng hào hùng [ hàokhí Đông A ].c. Nghệ thuật:- Văn học chữ Hán: văn chính luận, văn xuôi về lịch sử, thơ phú [ví dụ SGK]. – Văn học chữ Nôm: Một số bài thơ phú Nôm.d. Tác giả, tác phẩm tiêu biểu: SGK

2.Giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết XVII:

a. Hoàn cảnh lịch sử:– Kì tích trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. – Chế độ phong kiến Việt Nam đạt đến đỉnh cao cực thịnh, sau đó có những biểu hiện khủng hoảng.b. Nội dung: Từ nội dung yêu nước với âm hưởng ngợi ca chuyển sang nội dung phản ánh, phê phán hiện thực xã hội phong kiến trên lập trường đạo đức với cảm hứng củng cố, phục hồi xã hội thái bình thịnh trị.c. Nghệ thuật:- Văn học chữ Hán: văn chính luận, văn xôi tự sự.- Văn học chữ Nôm: có sự Việt hoá, sáng tạo những thể loại văn học dân tộc [thơ Nôm, khúc ngâm, diễn ca lịch sử].d. Tác giả, tác phẩm tiêu biểu: SGK

XEM THÊM:  Những nhận định về văn học

3. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế XIX:

a. Hoàn cảnh lịch sử:– Chế độ phong kiến suy thoái.- Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn [ Nguyễn Huệ] lật đổ tập đoàn PK Đàng trong [ chúa Nguyễn] và Đàng ngoài[ vua Lê chúa Trịnh], đánh tan giặc ngoại xâm [ quân Xiêm quân Thanh ]- Triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến, hiểm hoạ xâm lược của thực dân Pháp.b. Nội dung:Trào lưu nhân đạo chủ nghĩa.c.Nghệ thuật:- Thơ Nôm được khẳng định và đạt tới đỉnh cao.- Văn xuôi tự sự chữ Hán: tiểu thuyết chương hồi.d. Tác giả tác phẩm tiêu biểu: SGK

4. Giai đoạn nửa cuối XIX:

a. Hoàn cảnh lịch sử:– Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Nhân dân bất khuất chống giặc ngoại xâm, – Xã hội Việt Nam là xã hội thực dân nữa phong kiến, văn hoá phương Tây ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam. b. Nội dung:- Văn học yêu nước mang âm hưởng bi tráng.- Thơ ca trữ tình, trào phúng [ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ].c. Nghệ thuật:- Thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương là thành tựu nghệ thuật đặc sắc.- Sáng tác chủ yếu vẫn theo những thể loại và thi pháp truyền thống.- Một số tác phẩm văn xuôi chữ quốc ngữ đã bắt đầu đổi mới theo hướng hiện đại hoa.d. Tác giả, tác phẩm tiêu biểu: SGK

III. Những đặc điểm lớn về nội dung

văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

1. Chủ nghĩa yêu nước

– Là nội dung lớn xuyên suốt.– Biểu hiện:+ Gắn với tư tưởng “ trung quân ái quốc”.+ Ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc. + Lòng căm thù giặc, xót xa bi tráng lúc nước mất nhà tan.+ Tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thu.+ Biết ơn ca ngợi những người hi sinh vì nước.+ Trách nhiệm khi xây dựng đất trong thời bình. + Tình yêu thiên nhiên.* Tác phẩm tiêu biểu : Nam quốc sơn hà , [Lý Thường Kiệt] , Hịch tướng sĩ [Trần Quốc Tuấn], Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc [Nguyễn Đình Chiểu]

2 . Chủ nghĩa nhân đạo

– Cũng là nội dung lớn xuyên suốt.

Xem thêm: Đề Thi Nghề Tin Học Thpt Excel, Ôn Tập Thi Nghề

– Bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo, từ VHDG, tư tưởng Phật giáo, Nho giáo , Đạo giáo.- Biểu hiện:+ Lối sống “ thương người như thể thương thân ”. + Lên án tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp con người.+ Khẳng định đề cao phẩm chất tài năng, những khát vọng chân chính [ quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, công lí, chính nghĩa… ] của con người+ Cảm thông chia sẻ với số phận bất hạnh của con người.* Tác phẩm tiêu biểu: Truyện Kiều [Nguyễn Du] ,Cung Oán ngâm khúc [Nguyễn Gia Thiều], Chinh phụ ngâm [Đặng Trần Côn]

XEM THÊM:  Tính chất hóa học của kim loại, ví dụ và bài tập – hóa lớp 9

3. Cảm hứng thế sự:

– Bày tỏ suy nghĩ, tình cảm về cuộc sống con người, về việc đời.– Tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, xã hội đương thời để ghi lại “những điều trông thấy”.- Viết về nhân tình thế thái: Nguyễn Bỉnh Khiêm.- Đời sống nông thôn: Nguyễn Khuyến.- Xã hội thành thị: Trần Tế Xương.

IV. Những đặc điểm lớn về nghệ thuật của văn học từ X- hết XIX:

Khái quát văn học trung đại việt nam lớp 11

B. LUYỆN ĐỀ

Đề bài: Về cảm hứng yêu nước của văn học Việt Nam thời Trung đại sách giáo khoa NgữVăn 10 có viết:“ Điều đáng lưu ý là văn thơ nói đến những nội dung yêu nước đã không chỉ tồn tại ở dạng quan niệm, tư tưởng đơn thuần mà quan trọng hơn là sự tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc”.Hãy chứng minh và phân tích 1 số tác phẩm để làm sáng tỏ.

Xem thêm: Đề Kiểm Tra 1 Tiết Tiếng Anh Lớp 7 Chương Trình Mới Lần 1, Đề Kiểm Tra 1 Tiết Môn Tiếng Anh Lớp 7

DÀN Ý CHI TIẾT

I. MB

Trong dòng chảy của nền văn học dân tộc, cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo tựa như hai mạch ngầm xuyên suốt, cuôn chảy qua bao chặng đường lịch sử. Đặc biệt trong thời kì văn học Trung đai trước nhiều biến cố lịch sử lòng yêu nước ấy lại hừng hực cháy trong tâm hồn các thi nhân để rồi tuôn trào nơi đầu bút lực những nỗi lòng, tâm sự ngân lên như những nốt nhạc trầm bổng trong 1 bản đàn. Có lẽ chăng xuất phát từ đó mà sách giáo khoa Ngữ văn 10 đã cho rằng: “ Điều đáng lưu ý là văn thơ nói đến những nội dung yêu nước đã không chỉ tồn tại ở dạng quan niệm, tư tưởng đơn thuần mà quan trọng hơn là sự tồn tại ở dạng cảm xúc, cảm hứng, tâm huyết với đủ màu vẽ và cung bậc”.

II.TB

III.KB

Sống trong những triều đại khác nhau, chịu sự chi phối khác nhau của lịch sử, đồng thời mỗi người với một tâm tính, một cá tính sáng tạo đã làm nên những cảm hứng riêng về cảm hứng yêu nước. Có nỗi buồn, có niềm vui, niềm say mê hứng khởi, có giận thương, có buồn tủi, có bâng khuâng hổ thẹn, có rạo rực hả hê…Nguồn cảm hứng vô tận được thể hiện bằng nhiều cách nói, nhiều giọng điệu riêng. Có giọng điệu hùng tráng ở nhiều cấp độ, hình thái khác nhau. Có giọng điệu bi tráng, phẫn uất thành tiếng than, lời gọi. Có giọng điệu nhẹ nhàng, say sưa trước cảnh sắc thiên nhiên, đất nước… Tất cả tạo nên sự đa thanh, đa sắc, thể hiện sâu sắc, phong phú nội dung tư tưởng yêu nước- một vẻ đẹp rực rỡ của tâm hồn dân tộc./.

Chuyên mục: Văn Học

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Khái quát văn học trung đại việt nam lớp 11. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây và kính chúc quý độc giả năm mới 2022 an khang thịnh vượng !

Văn học trung đại là mở đầu cho văn học viết Việt Nam. Giữ vai trò to lớn trong việc hình thành, kết tỉnh những truyền thống quý báu của nền văn học dân tộc. .

Xem thêm văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

Sự phát triển của văn học trung đại

Cùng với sự phát triển toàn diện về chính trị, tôn giáo và các loại hình nghệ thuật khác như kiến trúc, điêu khắc.., văn học viết chính thức ra đời từ thế kỉ X. Tính đến hết thế kỉ XIX, văn học Việt Nam đã trải qua một thời kỳ khá dài, thời kì này được gọi là văn học trung đại.

Trên hành trình mười thế kỷ, văn học trung đại Việt Nam trải qua bốn giai đoạn: từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVI từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX và nửa cuối thế kỉ XIX.

Sau ngàn năm mất nước, nhân dân ta vừa giành được độc lập, nhiệm vụ xây dựng quốc gia thống nhất và chống ngoại xâm rất quan trọng. Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV là giai đoạn có nhiều tôn giáo [Nho giáo, Phật giáo…] cùng tồn tại hòa đồng ở nước ta. Trong giai đoạn này, việc khôi phục và xây dựng nền văn hiến dân tộc trong đó có văn học là một trọng trách lớn lao. Đây cũng chính là giai đoạn đặt nền móng có tính chất định hướng cho văn học trung đại nói riêng, cho văn học Việt Nam nói chung.
Về văn tự

Về văn tự, ông cha ta đã lựa chọn chữ Hán văn ngôn đọc theo âm Hán Việt. Với văn tự đó, trước hết chúng ta tiếp thu các thể loại văn học chính luận như chiếu, hịch, biểu, tấu, văn bia.. từ Trung Quốc để biểu đạt đời sống tinh thần của người Việt, tạo nên những áng văn có giá trị thể hiện ý thức độc lập, tự chủ như Thiên đô chiếu [Lí Công Uẩn], Dụ chư tỳ tướng hịch văn

[Trần Quốc Tuấn]. Sau đó là các thể văn xuôi được dùng để viết về lịch sử, văn hóa Việt Nam như Việt điện u linh tập [Lí Tế Xuyên], Lĩnh Nam chích quái lục [Trần Thế Pháp], Đại Việt sử kí [Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên] và nhiều tác phẩm khuyết danh khác. Cùng với đó, chúng ta tiếp thu các thể thơ, phú, từ của Trung Hoa để biểu hiện tâm tư, tình cảm của người Việt. Tiêu biểu có thể kể đến một số tác giả như Pháp Thuận, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Đặng Dung.. Điều đáng ghi nhận ở các tác giả này chính là sự Việt hóa thành công thể thơ Đường luật của Trung Hoa. 

Xuyên suốt các sáng tác văn học giai đoạn này là thái độ khẳng định và ngợi ca dân tộc: Nước Việt Nam có lịch sử và nền văn minh, văn hiến lâu đời; có truyền thống yêu nước. Đó là sự đảm bảo cho tương lai trường tồn của dân tộc.

Cũng trong giai đoạn này [thế kỉ XIII, chữ Nôm định hình đầy đủ và được dùng để sáng tác văn học. Những tác giả tiên phong trong lĩnh vực sáng tác văn học bằng chữ Nôm là Nguyễn Thuyên, Trần Nhân Tông, Chu An…

Giai đoạn thứ hai của văn học trung đại kéo dài từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII. Về lịch sử – xã hội, đây là giai đoạn triều Lê được thiết lập sau chiến thắng giặc Minh. Triều đại này đã lấy Nho giáo làm quốc giáo. Triều Lê tồn tại tròn 100 năm [1427 – 1527] thịnh trị, sau đó các phe phái phong kiến gây ra các cuộc nội chiến Lê – Mạc, Đàng Trong – Đàng Ngoài, dẫn đến tình trạng đất nước bị cắt chia.

Về văn học

Về văn học, giai đoạn này xuất hiện nhiều tác giả lớn như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ… Văn học chữ Hán vẫn phát triển và ghi dấu ấn bằng các tập truyện Thánh Tông di thảo [Lê Thánh Tông], Truyền kì mạn lục [Nguyễn Dữ]… Nhưng nổi bật hơn cả ở văn học giai đoạn này là sự phát triển của thơ ca quốc âm. Lần đầu tiên có. những tập thơ riêng của các danh gia như Quốc ám thị tập, Bạch Vân quốc ngữ thị.., lần đầu tiên có tác phẩm Nôm quy mô dài từ bốn trăm câu đến hơn tám nghìn câu thơ [Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải dài gần 400 câu thơ song thất lục bát; Thiên Nam mình giám — khuyết danh – dài 938 câu song thất lục bát]. Cũng trong giai đoạn này, ba thể thơ dân tộc ra đời: thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ hát nói. .

Văn học viết giai đoạn này vẫn tiếp nối nội dung yêu nước với các sắc thái khác nhau. Bên cạnh đó, một nội dung khác cũng được đề cập đến, đó chính là số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ.

Tiếp nối ba thế kỉ của giai đoạn thứ hai là giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Giai đoạn này, chế độ xã hội khủng hoảng dẫn đến các triều đại liên tiếp thay nhau sụp đổ [chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vua Lê và chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, triều đại Tây Sơn], tiếp đó là sự thiết lập

triều Nguyễn Gia Long. Phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra khắp nơi, đặc biệt là từ năm 1738 trở đi mà đỉnh cao là phong trào Tây Sơn cùng một lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến trong nước [Nguyễn, Trịnh, Lê], đập tan các cuộc xâm lược từ hai phía quân Xiêm và quân Thanh. Nhưng cuối cùng nhà Tây Sơn cũng sụp đổ. Đây cũng là giai đoạn mà ý thức về cá nhân phát triển. Trong cuộc đấu tranh, con người ý thức được vai trò của mình, do đó tạo ra trào lưu đòi giải phóng tình cảm cá nhân, tự do yêu đương…

Văn học viết giai đoạn thứ ba này phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại, đạt được nhiều thành tựu đỉnh cao về nghệ thuật. Hầu hết các sáng tác văn chương đều phơi bày hiện thực xã hội bất: công và quan tâm đến số phận con người bình thường, đấu tranh đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi. Ngôn ngữ văn học trưởng thành vượt bậc, đặc biệt là ngôn ngữ dân tộc. Các loại hình văn học nở rộ và đều đạt đỉnh cao. Truyện Nôm, ngâm khúc, thơ hát nói, thơ Nôm Đường luật, tiểu thuyết chương hồi [bằng chữ Hán] đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Tiêu biểu phải kể đến các tác phẩm Hoa tiên [Nguyễn Huy Tự], Đoạn trường tân thanh [Nguyễn Du], Chinh phụ ngâm diễn Nôm [Đoàn Thị Điểm ?], Cung oán ngâm [Nguyễn Gia Thiều].. Cùng với đó, truyện ngắn truyền kì viết bằng chữ Hán tiếp tục đổi mới; thể loại kí cũng nở rộ với nhiều sắc thái.

Tóm lại, đây là thời kì phát triển rực rỡ nhất, đánh dấu bước trưởng thành toàn diện của văn học trung đại Việt Nam.

Văn học trung đại Việt Nam kết thúc bằng giai đoạn thứ tư, nửa cuối thế kỉ XIX. Đến giai đoạn này chế độ phong kiến Việt Nam đã suy tàn. Pháp xâm lược, Việt Nam mất dần vào tay thực dân Pháp. Một chế độ xã hội nửa phong kiến nửa thực dân bước đầu hình thành ở Nam Bộ và lan ra Bắc Bộ.

Trong hoàn cảnh xã hội đó, văn chương yêu nước rất phát triển, tiêu biểu là Vờn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, thơ của Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích.. Về thể loại, cùng với thơ ca, văn chính luận, đặc biệt là loại văn điều trần cũng rất phát triển.

Tuy nhiên, do hạn chế về mặt văn tự và phương thức phản ánh, văn học trung đại viết bằng chữ Hán và chữ Nôm rơi vào bế tắc. Ở giai đoạn này, chữ quốc ngữ với văn xuôi quốc ngữ bắt đầu xuất hiện ở Nam Bộ, đánh dấu bước chuyển đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam sang thời kỳ hiện đại. 

Trải qua bốn thời kì phát triển, văn học trung đại Việt Nam thể hiện một số đặc điểm cơ bản. Thứ nhất, văn học gắn bó với vận mệnh đất nước và số phận con người. Chủ đề nổi bật của văn học trung đại là chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng. Tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và tư tưởng nhân văn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ thơ ca của Pháp Thuận, Dụ chư tỳ.tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn đến thơ ca của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung; từ Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, thơ văn Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Trường Tộ; từ Truyền kì mạn lục đến Truyền kì tân phả, Hoàng Lê nhất thống chí…

Thơ văn yêu nước trung đại thoạt đầu gắn liền với tư tưởng trung quân và lòng thương xót trăm họ, đến cuối thế kỉ XIX, khi vua quan đầu hàng giặc thì tinh thần yêu nước gắn liền với trách nhiệm của người dân trước tình cảnh đất nước. Đó là tình cảm thiết tha đối với giang sơn gấm vóc, là cảm hứng ngợi ca những tấm gương trung nghĩa cao cả, là niềm tự hào đối với lịch sử dân tộc, là nỗi đau đến nhỏ máu trước cảnh nước mất nhà tan… Tư tưởng và tình cảm đó thấm đượm trong mỗi bài thơ, bài hịch, bài cáo, bài văn tế, trên mỗi trang sử, trang tiểu thuyết, trên từng bản điều trần. Mỗi con người dù tư tưởng hoặc tôn giáo khác nhau nhưng tất cả đều dễ dàng cảm thông và dung hòa với nhau trong tình yêu Tổ quốc.

Tư tưởng nhân đạo trong văn học thể hiện ở sự quan tâm tới số phận con người. Trong Truyền kì mạn lục, mỗi mảnh đời đều được Nguyễn Dữ thuật kể lại với tình cảm chân thành đầy thương cảm. Đến thế kỉ XVIII, rộ lên trào lưu văn học viết về tình yêu đôi lứa và hạnh phúc gia đình. Niềm mơ ước được đoàn tụ với chồng của người chinh phụ, nỗi khát khao thầm kín của người cung nữ, nỗi đau xé lòng cho những số phận bất hạnh.. Là nguồn cảm hứng sáng tác của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du. Nhu cầu bức xúc về quyền sống con người, sự bùng nổ mãnh liệt của cá tính là nội dung của thơ Hồ Xuân Hương, thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ…

Sự gắn bó với đất nước và số phận con người làm cho văn học Việt Nam vừa giàu chất hùng tráng, vừa thấm đượm giọng điệu cảm thương.

Thứ hai, văn học trung đại Việt Nam luôn hấp thụ mạch nguồn văn học dân gian. Văn học dân gian không chỉ cung cấp để tài, cốt truyện, kinh nghiệm nghệ thuật mà còn định hướng bảo tồn bản sắc dân tộc và song hành với văn học viết trong suốt thời trung đại. Trở lại, các sáng tác văn xuôi chữ Hán đầu tiên đã sưu tầm, ghi chép, viết lại các truyền thuyết dân gian của người Việt; các sáng tác thơ tiếp thu các thể thơ như lục bát, song thất lục bát từ ca dao, dân ca. Các thể loại truyện Nôm, ngâm khúc vừa tiếp thu tư tưởng từ nguồn cội dân gian, vừa phát huy kinh nghiệm nghệ thuật của ca dao, tục ngữ.

Thứ ba, văn học trung đại tiếp thu tinh hoa văn học Trung Hoa trên tinh thần dân tộc, tạo nên những giá trị văn học đậm đà bản sắc Việt Nam. Đây là đặc điểm hết sức quan trọng của văn học trung đại Việt Nam.

Với ngàn năm Bắc thuộc thì ảnh hưởng của văn học Trung Hoa đối với Việt Nam là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, chúng ta đã tiếp thu một cách có chọn lọc chữ viết, hệ thống thể loại văn học Trung Hoa… Quá trình học tập, tiếp thu đó luôn theo tinh thần dân tộc, không rập khuôn, máy móc. Chẳng hạn về văn tự, ta dùng chữ Hán văn ngôn đọc theo âm Hán Việt; thơ Đường viết bằng chữ Việt [chữ Nôm]; truyện ngắn truyền kì đậm chất hiện thực và trữ tình, ít màu sắc ma quái; tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán, tiểu thuyết thế sự viết bằng chữ Việt và thơ dân tộc… Sự sáng tạo ra thơ lục bát, song thất lục bát và thơ hát nói đã đưa văn học Việt Nam lê một bước phát triển mới. .

Đặc điểm thứ tư của văn học trung đại Việt Nam được thể hiện ở sự vận động theo hướng dân tộc hóa và dân chủ hóa trong khuôn khổ thi pháp trung đại. Là Văn học Việt Nam nằm trong khuôn khổ thi pháp văn học trung đại nói chung, vẫn chịu sự quy định của thi pháp văn học trung đại: sự đối lập giữa nhã và tục, tính quy phạm khắt khe của thể loại, sự để cao các mã mực cổ xưa.. Tuy nhiên, văn học trung đại Việt Nam thường xuyên tự đổi mới về nội dung bằng cách bám sát cuộc sống luôn biến đổi của người Việt của dân tộc Việt để phản ánh. Do nội dung tác phẩm luôn luôn mở rộng yêu cầu phải có quy mô và hình thức phản ánh tương ứng nên từ ngôn ngữ thể loại đến phương thức biểu hiện dần dần thay đổi làm cho các quy phạm trung đại bị lỏng lẻo và phá vỡ dần, tạo điều kiện cho văn học trung đại tiến gần tới văn học cận hiện đại.

  • Tìm hiểu thêm kiến thức ngữ văn lớp 10

Kết bài

Trải suốt mười thế kỉ liên tiếp, văn học trung đại Việt Nam đã phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Tiếp nối văn học dân gian, văn học trung đại đã mở đầu cho dòng văn học viết Việt Nam và đóng vai trò to lớn trong việc hình thành, kết tỉnh những truyền thống quý báu của nền văn học dân tộc. Với tất cả những gì đã thể hiện, thời kì văn học này xứng đáng có được vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà.

Video liên quan

Chủ Đề