Liên hệ thuc te môn triết học mac le nin

Triết học Mác xuất hiện trong bối cảnh nền văn minh công nghiệp đã hình thành ở phương Tây vào nửa đầu thế kỷ XIX, nó là sự kết tinh tinh hoa tư tưởng của thời đại. Là kết tinh tư tưởng của nền văn minh công nghiệp lần thứ nhất, song nhiều di sản tư tưởng của C.Mác vẫn còn nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong thời đại ngày nay, thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư chứng minh dự báo thiên tài của C.Mác cách đây hơn một trăm năm về những thay đổi khi “tri thức xã hội phổ biến [wissen knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp”1.

[1]Một trong những quan điểm nền tảng tạo nên sức sống của triết học Mác chính là quan điểm thực tiễn. Nhà triết học hậu hiện đại J.Derrida đã nhận định rằng, sức sống của triết học Mác chính là ở tính mở, tính sáng tạo không ngừng và sự khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa Mác “nguyên bản” với chủ nghĩa Mác “bị xuyên tạc” chính là ở việc lấy thực tiễn làm tiền đề xuất phát. Do vậy, “chúng ta hãy trở lại với C.Mác, chúng ta hãy đọc ông như đọc một nhà triết học vĩ đại”2. Từ những gợi ý đó, bài viết này tập trung nghiên cứu quan điểm thực tiễn trong di sản tư tưởng của C.Mác để tìm ra những ý nghĩa ứng dụng về mặt lý luận đối với thời đại ngày nay, thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.

1. Quan điểm thực tiễn trong lịch sử triết học trước Mác

Quan điểm thực tiễn của C.Mác là sự tổng kết cao nhất các ý niệm về thực tiễn trong lịch sử triết học trước đó, đặc biệt là kế thừa trực tiếp từ triết học cổ điển Đức. Ngược dòng lịch sử, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, chúng ta dễ dàng tìm thấy trong nhiều tài liệu thuật ngữ “πρακτική” [practice] với nghĩa là hoạt động, hành động, công việc. Tuy nhiên, cần phải tính đến sự khác nhau giữa từ ngữ và khái niệm. Theo quan điểm triết học, nghĩa của từ ngữ là cái khác với khái niệm. Khái niệm không chỉ đơn thuần được xác định bằng cách giải thích ngôn ngữ, mà quan trọng hơn cả là nội dung của nó được xác lập bằng con đường lịch sử và gắn liền với lịch sử được nó phản ánh. Quan điểm hay khái niệm “thực tiễn” chưa xuất hiện ở thời cổ đại, khi đó mới chỉ có thuật ngữ “thực tiễn” dùng để định danh các hoạt động, công việc. Ngay đến Aristotle, dù tiến sát đến kết luận “lao động là thứ tạo ra giá trị” cũng đã buộc phải ngừng sự phân tích khi không tìm thấy một hiện thực nào tương ứng với sự mô tả của ông.

Đến thời cận đại, lao động sản xuất không còn dựa trên trình độ nắm bắt đối tượng ở hiện tượng, mà đã bắt đầu dựa trên quy luật. Trên nền tảng thực tiễn đang phát triển ấy, cùng với tư duy duy lý, triết học cố luận chứng rằng, sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tính chủ quan và tính khách quan không chỉ có ở hiện tượng, mà còn ở bản chất. Các triết gia tiêu biểu như F.Bacon, R.Descaster và sau này là Spinoza đã luôn trăn trở đi tìm “cái trung gian” cho sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, nhưng cái trung gian ấy vẫn không thể được hiểu như thực tiễn được. R.Descaster đã tìm đến Chúa với tư cách “trung gian” để đồng nhất tư duy và quảng tính, thể xác và linh hồn. Spinoza tìm ra “thực thể” là trung gian cho sự đồng nhất tư duy và tồn tại, nhưng “thực thể” của ông vẫn chỉ là giới tự nhiên phi lịch sử khi nó không nằm trong hoạt động của con người, mà được hoà tan vào giới tự nhiên. [2]

“Thực tiễn” với tư cách một phạm trù triết học chỉ được đặt ra một cách tự giác trong triết học cổ điển Đức. I.Kant là người đầu tiên định danh khái niệm “thực tiễn”. Ở Kant, “thực tiễn” đã bắt đầu được định nghĩa qua hoạt động nhưng đó chỉ là hoạt động của lý tính. Trong phạm vi “Lý tính thuần túy”, thực tiễn được ông hình dung như hoạt động nhằm tổ chức một cách tiên nghiệm các tư liệu cảm giác - kết quả do tác động của “vật tự nó” vào chủ thể, để tạo ra các đối tượng khả tri. Sở dĩ như vậy vì “mọi nhận thức của ta đều bắt đầu từ kinh nghiệm, đó là điều không có gì phải nghi ngờ; bởi vì thông qua cái gì khiến quan năng nhận thức được đánh thức để đi vào hoạt động nếu không phải thông qua những đối tượng tác động đến giác quan của ta”3 - Kant nhận định. Vì thế, thực tiễn không gì khác hơn là quá trình sáng tạo ra thế giới của những sự vật hiện ra trong kinh nghiệm. Sang địa bàn của “Lý tính thực tiễn [thực hành]”, thực tiễn đã được Kant định nghĩa như sau: “Thực hành “praktish” là tất cả những gì có thể làm được bằng tự do của ý chí”4. Nghịch lý đã bày ra trước mắt Kant, một mặt, nhờ lý tính mà thực tiễn trở thành quá trình tự do và sáng tạo; mặt khác, cũng bởi lý tính mà con người bị trói buộc vào tính tất yếu lôgíc. Và, Kant đã phải rời bỏ tính chất nhị nguyên của lý tính để thế vào đó tính chất nhất nguyên của đức tin. Do đó, thực tiễn, rốt cuộc - theo cách hiểu của Kant, là tiến trình hoạt động của con người dưới sự dẫn dắt của đức tin - một vị quan tòa tối cao và trung hậu có chức năng ngăn ngừa những xung đột trong lòng thực tiễn và đảm bảo cho sự vận động xã hội theo chiều hướng nhân bản, tiến bộ. [3][4]

Tiếp nối tư tưởng của Kant, các nhà triết học cổ điển Đức như Fichte, Schelling và đặc biệt là Hegel đã phát triển khái niệm “thực tiễn” gắn chặt với những quyền năng của tư duy, lý tính. Hegel rất tâm đắc với Kant rằng, nhờ có lý tính mà con người vươn cao vô hạn so với tất cả những thực thể còn lại đang sống trên mặt đất. Do vậy, với Hegel, trong mọi hoạt động của con người đều có sự tham gia, chỉ đạo của lý tính, nói đúng hơn là đều diễn ra nhất trí với các quy luật và hình thái lôgíc của nó. Theo đó, thực tiễn là một “hành vi suy lý lôgíc”, nghĩa là hình tượng lôgíc lấy thực tiễn của con người làm cái tồn tại khác của mình. Chính ở điểm này mà triết học Hegel được xem là chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Trong triết học của ông, những vòng khâu của nhận thức, ý niệm, các khái niệm lôgíc cũng đồng thời là những vòng khâu của hoạt động - thực tiễn của con người, của loài người. Tại những vòng khâu đó, Hegel đã chỉ ra mâu thuẫn và cách giải quyết mâu thuẫn giữa tư tưởng và khách thể, giữa tính chủ quan và khách quan. Hegel còn là nhà tư tưởng duy nhất trước C. Mác đã đưa một cách có ý thức khái niệm “thực tiễn” vào lôgíc học với tư cách tiêu chuẩn chân lý, tiêu chuẩn của tính đúng đắn của những thao tác mà con người thực hiện dưới hình thức từ ngữ - dấu hiệu. Lôgíc học ở Hegel đồng nhất với lý luận nhận thức chính nhờ thực tiễn của con người như một giai đoạn được đưa vào quá trình lôgíc, được xem như là biểu hiện bên ngoài của tư duy qua sự tiếp xúc với thế giới khách quan. Khi theo dõi sự khai triển những tư tưởng của Hegel, V.I.Lênin đã nhận định: “Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Hegel, thực tiễn là một mắt khâu trong sự phát triển của quá trình nhận thức, và với tư cách là sự chuyển hoá sang chân lý khách quan [“tuyệt đối” theo Hegel]. Như vậy, khi đưa tiêu chuẩn thực tiễn vào lý luận nhận thức, Mác đã trực tiếp gần với Hegel”5.

Song song với dòng triết học duy tâm - tư biện, chủ nghĩa duy vật trực quan mà đỉnh cao là Feuerbach cũng có những đóng góp nhất định trong việc giải quyết vấn đề “thực tiễn”. Feuerbach phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm đã tuyệt đối hóa mặt tinh thần của thực tiễn. Ông viết: “Từ Thượng đế suy ra giới tự nhiên, cái đó cũng giống như muốn từ tấm ảnh, từ bản sao suy ra bản chính, từ tư tưởng về sự vật suy ra sự vật đó”6. Chủ nghĩa duy vật Feuerbach đã đưa con người và hoạt động của họ trở về với giới tự nhiên. Với ông, tư duy chỉ là phương thức tồn tại mang tính hoạt động của thể xác vật chất; chủ thể của tư duy chính là con người, chứ không phải là sinh thể đặc biệt nào bên ngoài thế giới; theo đó, thế giới cảm tính với thế giới được nhận thức bằng trí tuệ là đồng nhất với nhau. Song, do quá coi trọng tính vật chất của hoạt động mà quên đi yếu tố tinh thần nên thực tiễn trong con mắt của các nhà duy vật trực quan chỉ là “thực tiễn thụ động”. [5]

Như vậy, dòng triết học duy tâm - tư biện từ Kant, Fichte, Schelling cho đến Hegel đã nắm bắt được cái tinh thần, ý thức - yếu tố làm nên tính năng động của thực tiễn. Tuy nhiên, nó đã phát triển yếu tố này một cách thái quá tới mức toàn bộ thực tiễn bị chìm ngập trong vòng xoáy của cái tinh thần. Trong khi đó, với các nhà duy vật trực quan mà đại diện là Feuerbach, thực tiễn lại bị đồng nhất với một mặt phiến diện khác; thành thử, “hiện thực, cái có thể cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể… không được nhận thức về mặt chủ quan”7. Toàn bộ những ưu điểm và hạn chế của hai đường hướng này trong triết học cổ điển Đức đã được triết học Mác kế thừa và vượt bỏ. [6][7]

2. Quan điểm thực tiễn trong triết học Mác

Với quan điểm thực tiễn, C.Mác đã đưa ra tuyên ngôn cho một nền triết học thực tiễn, triết học hành động. Chính việc đưa phạm trù “thực tiễn” vào lý luận nhận thức nói riêng và triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Theo C.Mác, “các nhà triết học chỉ giải thích thế giới bằng các phương thức khác nhau, vấn đề ở chỗ là thay đổi thế giới”8, do đó, triết học của ông không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động. Ngay từ khi phê phán quan điểm của các nhà biện chứng - duy tâm cổ điển Đức, C.Mác đã nhận ra rằng, “chính nơi mà tư biện dừng lại - chính trong thực tiễn hiện thực - là nơi bắt đầu khoa học thực sự, thực chứng, sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát triển con người”9.

Trên tinh thần duy vật - biện chứng, C.Mác định nghĩa “thực tiễn” thông qua khái niệm “hoạt động”: Thực tiễn là toàn bộ các hoạt động mà nhờ đó con người làm thay đổi hiện thực xung quanh và chính bản thân mình. Tìm hiểu, giải thích thế giới từ chính quá trình con người cải tạo thế giới được C.Mác coi là điểm xuất phát của việc nghiên cứu đời sống biện chứng khách quan. Ông khẳng định: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng mà thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra”10. [8][9][10]

Rõ ràng, theo quan điểm của C.Mác, thực tiễn trước hết phải là hoạt động của con người. Nhưng hoạt động ấy như thế nào lại là vấn đề cần được bàn đến một cách nghiêm túc bằng việc vạch ra các yếu tố cấu thành của nó, mà không một yếu tố nào nếu xét riêng thể hiện được bản chất của thực tiễn trong cách hiểu của Mác.

Để hoạt động của con người trở thành thực tiễn thì yếu tố đầu tiên cần phải có là đối tượng cho sự tác động, cải tạo đó. Theo quan điểm của C.Mác, thực tiễn giả định sự thống nhất biện chứng của hai quá trình: Thế giới tác động vào con người và con người tác động vào thế giới. Với ông, trước hết, hoạt động thực tiễn của con người phải là một hoạt động đối tượng - cảm tính, bởi nó cũng dựa trên cơ sở thực thể chung, phổ biến của thế giới là vật chất. Luận điểm về tính thống nhất vật chất của thế giới cho phép vạch ra và luận chứng sự thống nhất tồn tại xã hội của con người và các thuộc tính của nó như là sinh thể tự nhiên. Xuất phát từ sự thống nhất đó, C.Mác kết luận: “Tự con người như một lực lượng tự nhiên đã đứng đối lập với vật chất của tự nhiên”, và trong khi tác động với tư cách là lực lượng như vậy, con người đồng thời làm “thay đổi cả bản chất riêng của mình”. Nghĩa là, chính hoạt động thực tiễn của con người đã quy định bản chất của họ. Theo ông, “hoạt động sống của họ là như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó, họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất”11.

Nhưng, con người không chỉ hoạt động để phù hợp với thuộc tính tự nhiên của mình, mà điều chủ yếu là nó phải mang bản tính xã hội; do vậy, hoạt động thực tiễn của con người cả về nội dung lẫn phương thức thực hiện đều mang tính chất xã hội và được biểu hiện khác nhau ở các hình thái xã hội khác nhau. Vì thế, đề cập đến hoạt động “cải tạo thế giới” thì phải hiểu đó là hoạt động ở trình độ phát triển nhất định, ở một hình thái xã hội nhất định. Thực tiễn không đơn giản chỉ là hoạt động vật chất, hơn thế, nó còn là hoạt động vật chất xã hội; bởi lẽ, con người không chỉ là một sinh thể tự nhiên mà còn là một sinh thể xã hội. Các hình thức hoạt động của con người được hình thành trong tiến trình lịch sử không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của từng cá nhân riêng rẽ, mà được điều khiển bởi những quy luật phát triển của đời sống vật chất xã hội. Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất, cảm tính nhưng không phải mọi hoạt động thực tiễn đều như nhau về tính chất, trình độ. Điều đó phụ thuộc vào hoạt động thực tiễn ấy diễn ra trong hình thái xã hội nhất định nào, được cho bởi hình thái ấy như thế nào. Vì thế, mỗi một giai đoạn trong lịch sử của một cộng đồng xã hội, con người đạt đến một trình độ hoạt động thực tiễn nhất định phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của giai đoạn đó. Bởi vậy, thực tiễn có tính tương đối, cụ thể, không có một thực tiễn trừu tượng, chung chung. Chính bởi yếu tố này mà phạm trù “thực tiễn” không chỉ mang tính phổ biến, mà còn thể hiện tính đặc thù, “tính hiện thực trực tiếp”. [11]

Hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người còn cần phải được hiểu như hoạt động có ý thức, như là thực tiễn hướng đích. Công lao to lớn của C.Mác tuyệt nhiên không phải ở chỗ “đuổi” cái tinh thần ra khỏi thực tiễn, để rồi biến thực tiễn thành hoạt động vật chất thuần túy như một số người vẫn lầm tưởng; và cũng không phải là việc làm cho cái tinh thần trở thành thụ động bằng cách tách nó ra khỏi thực tiễn, rồi sau đó kết hợp nó lại một lần nữa theo nguyên tắc “thống nhất lý luận và thực tiễn”. Trái lại, ông luôn coi cái tinh thần như một thành tố hữu cơ, một thuộc tính cố hữu của bản thân thực tiễn. Chính hoạt động có ý thức, hướng đích để tái chế thế giới đối tượng tạo thành “bản tính tộc loài của con người”. Hoạt động thực tiễn mang tính chất của quan hệ tộc loài, có ý thức, hướng đích được C.Mác gọi là hoạt động “đối tượng hóa” mà theo ông, là đặc trưng của con người và phù hợp với bản chất của nó. Trong quan hệ hoạt động đó với thế giới, một mặt, con người sản xuất ra các đối tượng tiêu dùng; mặt khác, đối tượng đó [sản phẩm lao động] cũng là một sự vật hóa tư tưởng con người. Do vậy, con người nhân đôi mình không chỉ một cách tư tưởng, mà quan trọng hơn - một cách hiện thực qua hoạt động và soi ngắm mình trong chính thế giới do mình tạo ra.

Như vậy, tính tự nhiên vật chất, tính xã hội và tính có ý thức là những tiền đề, những yếu tố cần thiết của thực tiễn. Chính bởi những yếu tố đó mà thực tiễn trở thành “một mắt khâu trung gian rất quan trọng” giữa con người [trực quan và tư duy] với bản thân thiên nhiên như nó vốn có - mà qua đó, thiên nhiên được chuyển hóa vào tư tưởng, còn tư tưởng chuyển hóa vào thân thể thiên nhiên. Từ đó, cũng có thể định nghĩa ngắn gọn rằng, thực tiễn chính là sự hiện thực hóa bản chất cải biến - sáng tạo của con người. Bản chất đó của con người dĩ nhiên chỉ được thực hiện trong khuôn khổ bản chất thực của nó như là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Nhưng, không phải mọi hoạt động vật chất đều là sự hiện thực hóa bản chất đó; bởi lẽ, cũng có những hoạt động trong xã hội làm biến dạng bản tính sáng tạo của con người. C.Mác nhận xét rằng, ở những hình thái xã hội nhất định, hiện thực hóa có thể biểu hiện dưới dạng tha hóa, nghĩa là không phù hợp với bản chất con người. Đó cũng chính là dạng lịch sử tạm thời của sự hiện thực hóa ấy.

Việc vạch ra bản chất và các hình thức cơ bản của thực tiễn cho phép chúng ta chỉ ra chức năng của nó đối với sự nhận thức của con người. Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở, động lực và cũng là mục đích của nhận thức, với ý nghĩa đó thực tiễn chính là thước đo cao nhất của mọi chân lý khoa học. Thực tiễn là nguồn gốc của nhận thức vì mọi tri thức, trước hết và xét đến cùng đều do các nhu cầu thực tiễn tạo ra. Thực tiễn xuyên suốt mọi mặt, mọi khâu, mọi quá trình nhận thức, bắt đầu từ cảm giác sơ đẳng nhất và kết thúc ở lý luận trừu tượng nhất. Thực tiễn là mục đích của nhận thức bởi toàn bộ tri thức con người, xét đến cùng, đều có mục đích quay trở lại thực tiễn và tác động tích cực đến sự thay đổi của nó. Nhiệm vụ của con người không chỉ là nhận thức và giải thích thế giới, mà còn là sử dụng những tri thức nhận được làm “kim chỉ nam cho hành động” nhằm cải tạo thế giới và hoàn thiện cuộc sống của con người.

Vai trò đặc biệt quan trọng của thực tiễn đối với nhận thức ở chỗ nó là tiêu chuẩn quyết định chân lý. Chính C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy”12. Chân lý là một quá trình, quá trình ấy chỉ diễn ra trong lòng của thực tiễn; “từ ý niệm chủ quan người ta đi đến chân lý khách quan qua thực tiễn”13.

Có thể nói, quan điểm thực tiễn không chỉ có ý nghĩa thế giới quan, mà còn có ý nghĩa nhận thức luận với phương châm “thống nhất lý luận với thực tiễn”. Trong cách hiểu của C.Mác, ngay từ đầu lý luận và thực tiễn đã không tách rời nhau để người ta có thể dùng ý muốn chủ quan mà thống nhất chúng lại. Trong lòng thực tiễn đã có lý luận. Tuy nhiên, thực tiễn và lý luận lại là hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng. Cũng giống như sự thống nhất của hai mặt đối lập “bản chất” và “hiện tượng” trong học thuyết bản chất của Hegel, thực tiễn và lý luận cũng là sự thống nhất và mâu thuẫn trong cùng một chỉnh thể thực tiễn. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng phát biểu rằng, “thực tiễn cao hơn lý luận” và “bản thân sự đối lập về lý luận [duy tâm hay duy vật, chủ nghĩa chủ quan hay khách quan] chỉ có thể làm được bằng con đường thực tiễn, bằng cách thông qua tinh lực thực tiễn của con người, rằng do đó việc giải quyết chúng hoàn toàn không chỉ là nhiệm vụ của nhận thức mà còn là nhiệm vụ hiện thực của đời sống mà triết học đã không thể giải quyết được chính
là vì nó coi nhiệm vụ đó là nhiệm vụ
lý luận”14. [12][13][14]

Thực tiễn là cơ sở của nhận thức và do đó, là cơ sở của đời sống tổng thể của con người. C.Mác đã xem xét ý nghĩa nhận thức luận của thực tiễn trong mối liên hệ với vai trò xã hội đó của nó. Chính việc luôn tuân thủ một cách nghiêm ngặt sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn đã làm cho triết học Mác trở thành một học thuyết vừa mang tính khoa học, vừa mang bản chất cách mạng, có khả năng cải biến đời sống hiện thực của nhân loại. Xuất phát từ việc mô tả thực tiễn, từ nhu cầu thiết thực của thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, C.Mác đã khắc phục triệt để mọi sự phiến diện trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó. Với tính phổ biến và khoa học sâu sắc, phạm trù “thực tiễn” trong triết học Mác là tấm gương phản ánh một cách chính xác, hoàn chỉnh thực tiễn hiện thực. “Thực tiễn” trong triết học Mác không chỉ được hiểu là môi trường trong đó diễn ra mọi hoạt động sống của con người, mà còn như một nguyên tắc của nhận thức, giúp chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động của con người.

3. Áp dụng quan điểm thực tiễn của C.Mác trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá về khoa học, công nghệ mà nền tảng là công nghệ số đã được hình thành từ chục năm về trước [lần đầu tiên khái niệm cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện tại Hội chợ Hannover - Đức năm 2011], hiện vẫn là xu hướng chủ đạo và sẽ tiếp tục tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội của các quốc gia trên toàn cầu. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc”15. Thực tiễn mới của cách mạng 4.0 ngày nay tiếp tục là minh chứng và kiểm nghiệm cho quan điểm kinh điển của triết học Mác về thực tiễn đời sống của con người.

Đi liền với đột phá về công nghệ số và trí tuệ nhân tạo [như: internet vạn vật, điện toán nhận thức, mạng không dây, rôbốt thông minh…], cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đem lại những thách thức đối với vấn đề về an ninh mạng, an ninh phi truyền thống. Cho dù có đem lại những đột phá lẫn thách thức mới mẻ như thế nào chăng nữa, xét đến cùng, cuộc cách mạng này vẫn xuất phát từ thực tiễn, do chính nhu cầu phát triển của đời sống xã hội. Những thách thức mà cuộc cách mạng công nghiệp này đang đặt ra, như con người dần bị lệ thuộc vào các không gian ảo, những lầm tưởng về trí tuệ nhân tạo… đã khiến nhiều người nghĩ rằng, có những thực tế tách rời khỏi đời sống vật chất thực và khoa học chỉ là lĩnh vực của tinh thần mà thôi. Việc làm rõ bản chất thực tiễn đời sống của con người qua lăng kính của triết học Mác đã cho thấy nền tảng thực sự mà khoa học cũng như sự phát triển công nghệ, xét đến cùng, đã và đang phát triển trên đó. [15]

Hơn nữa, sự phát triển của khoa học và công nghệ trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 còn là minh chứng rất rõ cho quan niệm thực tiễn của triết học Mác với tư cách sự hiện thực hóa bản chất cải biến - sáng tạo của con người. Với sự ra đời của công nghệ in 3D, internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo…, đời sống của nhân loại đã có những bước đột phá đáng kể. Những phát minh và công nghệ mới đã giúp con người tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công sức để làm ra vật phẩm; đồng thời, giúp con người có được những sản phẩm tiện dụng hơn, thỏa mãn mục đích sử dụng của mình. Tuy nhiên, cho dù thực tiễn có thay đổi đáng kinh ngạc như thế nào chăng nữa thì vẫn cần phải nhớ rằng nó luôn được cấu thành từ các yếu tố: Tính vật chất, tính xã hội và tính có ý thức như C.Mác đã chỉ ra.

Bản thân thực tiễn luôn là sự hợp nhất của cái vật chất và cái tinh thần, của tư duy và tồn tại, của chủ quan và khách quan. Vì thế, không thể phân định rạch ròi ra thành thực tiễn vật chất hay thực tiễn tinh thần. Tuy nhiên, một số tài liệu triết học mácxít đã phân loại ra thành ba dạng thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm - khoa học. Điều này khiến nhiều người nhầm tưởng hoạt động của các lĩnh vực khác nhau đó quy định các loại hình thực tiễn khác nhau. Song, thực chất không phải như vậy. Việc phân loại thực tiễn là một sự trừu tượng hóa do kết quả của các cuộc phân công lao động xã hội. Những cuộc phân công này đều diễn ra trong lòng thực tiễn và do thực tiễn quy định. Tuy nhiên, cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người, sự ra đời các cuộc phân công lao động lớn đã làm thay đổi tỷ trọng của các yếu tố cấu thành thực tiễn. Càng ngày lao động trí óc càng giữ vai trò chủ đạo và tách ra thành một bộ phận độc lập. Điều đó càng chứng minh cho những khả năng nhận thức, sức mạnh cải tạo thế giới bởi con người.

Đúng như C.Mác đã nhận định: “Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định”[16]. Nhận định đó của C.Mác cũng là một trong những cơ sở để lý giải tại sao sự phát triển của không gian ảo và công nghệ điện toán, công nghệ in 3D, trí tuệ nhân tạo… trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 này lại tác động mạnh mẽ tới đời sống con người hiện đại đến như vậy. Trong thời đại này, các phát minh với tư cách một “nghề đặc biệt” như C.Mác đã nói đang làm cho thực tiễn không dừng lại chỉ ở giới hạn “thực tiễn thông thường”, mà còn được mở rộng thành “thực tiễn sáng tạo”. Thực tiễn thông thường là thực tiễn lặp lại quá khứ, không thể cải biến thế giới từ gốc; chỉ có thực tiễn sáng tạo mới có thể thực hiện công cuộc cải tạo có tính cách mạng đối với thế giới hiện tồn. Hiểu rõ bản chất của thực tiễn trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 với trọng tâm là đột phá về khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có những định hướng đúng đắn về mặt lý luận, đó là “nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”17.

Nắm vững bản chất, vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường của nhận thức chân lý khách quan”, chúng ta sẽ nhận thức sâu sắc hơn thực chất của cách mạng công nghiệp 4.0. Khoa học và công nghệ dù phát triển cao đến đâu, ở trình độ tư duy trừu tượng thế nào đi nữa thì nó vẫn phải xuất phát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Những phát minh về mạng kết nối vạn vật, điện toán nhận thức, công nghệ in 3D hay trí tuệ nhân tạo… là hiện thân của trí tuệ sáng tạo của con người. Rốt cuộc, đó vẫn là hoạt động mang tính vật chất, tính xã hội, tính có ý thức của con người. Nó xuất phát từ chính đòi hỏi của thực tiễn đời sống và trở lại phục vụ cho đời sống; vì vậy, chúng ta cần luôn ghi nhớ rằng, các phát minh và công nghệ bao giờ cũng phải lấy thực tiễn làm thước đo, tiêu chuẩn và kiểm nghiệm tính chân lý của nó. Như C.Mác đã cảnh báo, có những hoạt động vật chất chân chính nhưng cũng có những hoạt động vật chất mang tính “tha hóa”. Do vậy, phải nhận thức rõ đâu là thực tiễn chân chính trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 này để có thể tận dụng những cơ hội và vượt qua những thách thức mà cuộc cách mạng này đã và đang mang lại. [17]

Tựu trung lại, trên cơ sở giải quyết một cách đúng đắn, thực sự khoa học “vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại - vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức”[18], C.Mác đã xây dựng thành công quan điểm thực tiễn, từ đó đưa ra tuyên ngôn cho một nền triết học hành động, triết học thực tiễn. Chính triết học ấy đã tạo ra sức mạnh tự thân từ thực tiễn và vì thế, nó hiện vẫn đúng đắn và có vị trí xứng đáng trong hệ thống tri thức khoa học hiện đại. Hiện nay, việc thấm nhuần, quán triệt quan điểm thực tiễn của C.Mác cả trong nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn sẽ giúp chúng ta có thể tận dụng được thời cơ và vượt qua được những thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. 

[*] Thạc sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

[1] C.Mác và Ph.Ăngghen [2000], Toàn tập, t.46, phần II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.372.

[2] J.Derrida [1994], Những bóng ma của Mác, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.78.

[3] Kant Imanuel [2004], Phê phán lý tính thuần túy, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.77.

[4] Kant Imanuel [2004], Sđd., tr.1141.

[5] V.I.Lênin [1981], Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.228.

[6] Trích theo: V.I.Lênin [1981], Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.58.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.9.

[8] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.3, tr.11.

[9] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.3, tr.39.

[10] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.3, tr.28-29.

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.3, tr.30.

[12] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.3, tr.9-10.

[13] V.I. Lênin [1981], Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 215.

[14] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.42, tr.177.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam [2021], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.106.

[16] C.Mác và Ph.Ăngghen [2000], Toàn tập, t.46, phần II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.367.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam [2021], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.140.

[18] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.21, tr.403.

Chủ Đề