Phân tích đoạn hai bài bình ngô đại cáo

(1)Bài làm (Phân tích 2 đoạn BNĐC) Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu Ức Trai, quê Hải Dương sau dời về Hà Tây. Ông có một cuộc đởi đầy trắc trở với nỗi oan Lệ Chi Viên. Ông là một bậc vĩ đại, một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại cho nhân loại một lượng lớn tác phẩm kiệt xuất chữ Hán và chữ Nôm. Một trong số đó là bài “Bình Ngô đại cáo” (việc dẹp yên giặc Minh). Bài cáo này ra đời vào đầu năm Đinh Mùi, cuối năm 1427 – đầu năm 1428. Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” đã đề cao nhiều tư tưởng lớn lao của dân tộc là nhân nghĩa, yêu nước, yêu độc lập, yêu hòa bình. Mở đầu bài cáo, tác giả đã nói lên luận đề chính nghĩa với tư tưởng “nhân nghĩa” là chủ đạo, là mục tiêu chiến đấu cao cả và thiêng liêng của nghĩa quân Lam Sơn: “Từng nghe Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, […] Chứng cớ còn ghi.” Tư tưởng “nhân nghĩa” đã được Nguyễn Trải thể hiện qua phần đầu của “Bình Ngô đại cáo”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” – “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. “Nhân nghĩa” bắt nguồn từ Nho giáo của Khổng Tử. Nhân tức là thương yêu người, tôn trọng người; nghĩa là làm theo lẽ phải. Nhưng với Nguyễn Trãi, ông cũng “nhân nghĩa” nhưng “nhân nghĩa” tức là “yên dân trừ bạo”. “Yên dân trừ bạo” là làm cho nhân dân có thể sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc trong đất nước độc lập hòa bình, đồng thời cũng diệt giặc, chống ngoại xâm, cứu dân cứu nước. Với ông, “nhân nghĩa” gắn liền với việc chống giặc ngoại xâm – kháng chiến Lam Sơn là thực hiện “nhân nghĩa”. Đồng thời, luận đề chính nghĩa của Nguyễn Trãi có cả sự nhân đạo và việc trị nước. “Nhân nghĩa” của ông là lấy lợi ích, lí tưởng của dân làm gốc. Trong thơ văn của ông, đã không ít lần nhắc đến điều đó: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương.” (Cảnh ngày hè) Đoạn tiếp theo cũng là nội dung được nhấn mạnh của bài cáo, là chân lí độc lập của Đại Việt ta. Nền độc lập đã được Nguyễn Trãi liệt kê ra: “Như nước Đại Việt ta từ trước, […] Song hào kiệt đời nào cũng có.” Nền độc lập đã được Nguyễn Trãi liệt kê ra với năm yếu tố. Thứ nhất là tên nước Đại Việt: “Như nước Đại Việt ta từ trước”. Thứ hai là nền văn hiến lâu đời – mỗi quốc gia, dân tộc đều phải có nền văn hiến riêng từ văn hóa, lịch sử, xã hội như để khẳng định nền văn hiến đã có từ lâu, không phải ai cũng có: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Thứ ba là cương giới lãnh thổ riêng – là núi, sông, biển được phân định rõ ràng: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Thứ tư là phong tục tập quán riêng: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Ở đây đã nhấn mạnh rất rõ ràng và cụ thể về Trung Quốc (phương Bắc) và Đại Việt (phương Nam) không thể nhầm lẫn. Thứ năm là lịch sử riêng: “Từ Triệu, Đinh, […] Song hào kiệt đời nào cũng có”. Qua năm yếu tố, tác giả đã gần như khái quát toàn diện về nền độc lập. “Bình Ngô đại cáo” được ví như bản Tuyên ngôn độc lập lần 2. So với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt chỉ nói lên được chủ quyền và lãnh thổ (thiên thư – sách trời): “Nam quốc sơn hà Nam đế cư […] Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Với giọng văn trang nghiêm, đĩnh đạc và cách dùng từ: “từ trước”, “đã chia”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “cũng khác” đã khẳng định tính chất hiển nhiên, vốn có của một nước độc lập chủ quyền, như một lời tuyên ngôn độc lập. Phần còn lại là chứng cớ khẳng định nền độc lập với. Lop10.com. (2) cuộc chiến phương Bắc với chúng ta, là lịch sử minh chứng rõ ràng nhất: “Vậy nên: - Lưu Cung […] Chứng cớ còn ghi”. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một bài “Bình Ngô đại cáo” là thể văn biền ngẫu được Nguyễn Trãi viết rất tài tình như câu: “Từ Triệu […] xưng đế một phương”. Bốn triều đại mạnh nhất của ta và của Trung Hoa đã chứng tỏ ta ngang hàng với Trung Hoa. Qua ý tứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ và nghệ thuật so sánh đầy thuyết phục đã thể hiện rõ ràng Trung Quốc chẳng là gì so với ta. Đoạn mở đầu đã nêu rõ hai nội dung chính với tư tưởng nhân nghĩa “yên dân trừ bạo” và nền độc lập của dân Đại Việt. Nguyễn Trãi đã khẳng định vị trí của dân ta và tôn cao qua phép so sánh và giọng điệu đầy tự hào cùng với chứng cớ oanh liệt. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng không có một sự so sánh như vậy. Nếu như đoạn một nêu lên luận đề chính nghĩa thì đoạn hai là bản cáo trạng đanh thép vạch rõ tội ác của quân Minh xâm lược. Ức Trai đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ đổ nát, giặc Minh thừa cơ xâm lược: “Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, […] Ai bảo thần nhân chịu được?” Năm 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh huy động lực lượng xâm lược nước ta và mang sắc vào dụ vua Chăm – pa phối hợp tiến công từ phía Nam. Sau 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, dưới lá cờ khởi nghĩa của Lê Lợi, nhân dân ta đã đánh đuổi quân Minh khỏi lãnh thổ đất nước. Từ “nhân, thừa cơ” giả nhân giả nghĩa, mượn gió bẻ măng của giặc Minh. Lịch sử đã ghi lại tội ác đáng ghê tởm của giặc Minh từ chính sách và biện pháp và một lần nữa, “Bình Ngô đại cáo” tố cáo mạnh mẽ tôi ác của chúng (bọn giặc Minh và “gian tà bán nước cầu vinh”). Tác giả đã khẳng định đó là tội ác: “Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế, Gây binh kết oán trải hai mươn năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.”. Nguyễn Trãi cũng đã liệt kê ra hành động dã man của chúng. Âm mưu càng gian xảo bao nhiêu thì chính sách càng thâm độc bấy nhiêu. Hai câu: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” Đây là hình ảnh vừa cụ thể vừa khái quát hóa bản cáo trạng, lởi buộc tội. Vốn không có nhiều nhà văn – nhà thơ đưa hình ảnh “dân đen” vào văn thơ. Dân đen là kiếp người nhỏ bé nhất của xã hội nay là nạn nhân của tội ác mà quân giặc mà quân giặc gieo rắc trên bờ cõi sống còn của dân tộc. Nếu không có một tấm long rộng mở, tinh thần nhân đạo thì làm sao có thể viết câu văn mang đậm tính nhân văn như thế. Đồng thời, “nướng” và “vùi” là hai động từ mạnh cùng với “ngọn lửa hung tàn” và “hầm tai vạ” đã tố cáo hành động diệt chủng, tàn sát dã man, bất kể già trẻ. Có thể nói, hai câu văn được viết ra bằng máu và nước mắt của vị anh hùng dân tộc, “hào kiệt” một lòng vì dân vì nước. Vơ vét sản vật, tiệu diệt con người, bóc lột … mà không có giấy bút nào tả xiết. Tội ác thuế khóa nặng nề “Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.”; tội ác bóc lột tài sản, sức lực – vơ vét sản vật: “Người bị ép […] nơi nơi cạm đặt” với tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng. Chúng còn dã man tới mức hủy hoại môi trường sống: “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ” và phá hoại cuộc sống: “Nay xây nhà […] Tan tác cả nghề canh cửi” khiến dân phải bỏ cả nghề mưu sinh. Ông đã đứng trên lập trường nhân văn, đứng về quyền sống của con người. Nguyễn Trãi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc, phản nhân đạo và tội ác tày trời của giặc.. Lop10.com. (3) Hậu quả mà bọn chúng để lại thật tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái nheo nhóc, muôn loài bị tuyệt diệt, nhân dân khổ cực. Còn bọn quân Minh thì “thằng há miệng, đứa he rang, máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Bọn chúng như loài quỷ khát máu người, chỉ nhăm nhe xé nhân dân ta đến tận xương tủy. Nhân dân ta trong tình cảnh khốn cùng, tính mạng bị đe dọa bởi “cá mập, thường luồng, rừng sâu, nước độc”, môi trường sống bị hủy diệt, thuế khóa nặng nề đến mức bi đát cùng cực không còn con đường sống. Nguyễn Trãi đã chọn cái vô cùng: “trúc Nam Sơn, nước Đông Hải” để so sánh với tội ác tày trời. Cuối cùng, Ức Trai đã kết án bằng hai câu đanh thép: “Lẽ nào trời đất dung tha. Ai bảo thần nhân chịu được?” Tội ác của giặc Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ trời. Hành động nhơ bẩn của chúng khiến “trời đất” và “thần nhân” không thể tha thứ. Đoạn văn này là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp của giặc Minh suốt 20 năm trên mảnh đất Đại Việt. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật viết cáo trạng: liệt kê có chọn lọc, giọng văn hợp cảm xúc. Lúc đầu thì căm phẫn, tức giận thấu xương lũ tàn bạo xâm lược, lúc thì thể hiện sự xót xa, đau đớn của nhân dân ta, lúc thì thống thiết và đanh thép để kết án. Ức Trai cũng đã đan xen, kết hợp hai hình ảnh khái quát và cụ thể làm tăng tính tuyết phục và đạt được mức cô đọng, hàm súc. (ĐĐG) Chỉ với 43 dòng văn cáo trạng “Bình Ngô đại cáo” đã làm sáng tỏ hai luận điểm chính: luận đề chính nghĩa và vạch rõ tội ác của kẻ thù. Bài cáo đã sử dụng hình ảnh vừa khái quá vừa cụ thể, câu văn biền ngẫu, nghệ thuật so sánh, động từ mạnh, giọng văn thay đổ, ý tứ chặt chẽ … làm hiện rõ bộ mặt bất nhân của giặc Minh. Bên cạnh đó, giọng văn liên tục thay đổi đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân, tấm lòng nhân đạo vô bờ bến của Ức Trai. “Bình Ngô đại cáo” là một áng văn chính luận bất hủ, là một “thiên cổ hùng văn” đạt đến đỉnh cao về tư tưởng, nghệ thuật về nền văn hiến độc lập của Đại Việt thế kỉ XV. Ông đã khẳng định về tư tưởng nhân nghĩa “yên dân trừ bạo” và chân lí độc lập của nước Đại Việt. Đồng thời, Nguyễn Trãi vạch bộ mặt âm mưu xâm lược “phù Trần diệt Hồ” giả nhân giả nghĩa và tố cáo tội ác tày trời của giặc Minh gây ra cho toàn thể dân tộc Đại Việt. “Bình ngô đại cáo” xứng đáng là một “thiên cổ hùng văn” xuất sắc nhất trong nền văn học trung đại.. (Tác giả: Phạm Hoàng Minh). Lop10.com. (4)

Phân tích đoạn hai bài bình ngô đại cáo

1. Dàn ý phân tích đoạn thơ thứ 2 trong Bình Ngô đại cáo

a. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của tác gia Nguyễn Trãi.

- Khái quát sơ lược về tác phẩm Bình Ngô đại cáo và dẫn dắt đi vào phân tích đoạn 2 trong Bình Ngô đại cáo.

b. Thân bài:

- Nguyễn Trãi nhắc đến âm mưu xâm lược như sau:

+ Tác giả Nguyễn Trãi đã chỉ rõ âm mưu của bọn giặc Minh muốn xâm lược đất nước ta đã có từ rất lâu, không phải ngày một ngày hai.

+ Vạch trần luận điệu “phù Trần diệt Hồ” của giặc Minh (việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên cớ để giặc Minh thừa cơ gây họa, mượn gió bẻ măng).

- Tác giả vạch trần những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh:

+ Thu thuế khóa nặng nề.

+ Vơ vét sản vật, bắt chim trả

+ Ép người làm những việc nguy hiểm (dòng lưng mò ngọc, đãi cát tìm vàng,…).

- Tác giả tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc:

+ Hủy hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội (nướng dân đen, vùi con đỏ,…).

+ Hủy hoại cả môi trường sống (Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ).

c. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, nêu chủ đề của đoạn trích.

2. Em hãy bình giảng đoạn 2 của Bình Ngô đại cáo

Nguyễn Trãi là người sống vì dân, vì nước, cả cuộc đời ông luôn là một con người có lòng nhân hậu, đau đáu thương người, ông vô cùng tài giỏi khi đã làm rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, đồng thời còn kể rõ những hành động độc ác của bọn giặc trên dân tộc ta, đó được xem là định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.

Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh”

Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia làm hai cánh theo đường sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hộ nước ta bằng vô số những chính sách, chiến lược khác nhau.

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ, lừa lọc nhân dân ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất nghĩa thì chẳng chuyện gì mà không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán hận ngập trời, "Bọn gian tà bán nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.

Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng ra sức tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những phương thức hết sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên tiếp bịp bợm "Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế", gieo rắc thù oán hết gần 20 năm trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta thành nô lệ, thành những công cụ biết nói, ép nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.

Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”

Tác giả đã chọn những cái vô cùng là trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để nói đến tội ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn xé nhân dân ta đến tận xương tủy. Hậu quả chúng để lại vô cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.

Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:

“Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần nhân chịu được?”

Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể nào tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.

Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với một hình ảnh hoàn toàn đối lập "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán", quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông tin vào thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.

Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.

3. Cảm nhận về đoạn thơ thứ 2 của Bình Ngô đại cáo

Nguyễn Trãi là một trong ba danh nhân văn hóa của dân tộc được UNESCO công nhận, đồng thời là nhà quân sự lỗi lạc, nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước rối ren, loạn lạc – nhà Trần suy yếu, nhà Hồ nhiễu nhương, lại phái quân cuồng Minh xâm lược, hoàn cảnh ấy càng thổi bùng lên tinh thần yêu nước vốn đã thấm nhuần trong tư tưởng truyền thống xuất phát từ dòng tộc. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi lớn lao không tả, chẳng những là mưu sĩ với thần cơ diệu toán của khởi nghĩa Lam Sơn, ngòi bút của ông cũng góp phần quan trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại thái bình cho nước nhà, điển hình là hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Đại cáo bình Ngô”. Đặc biệt, tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” được xem như “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc có giá trị cả về mặt chính trị, lịch sử lẫn văn học. Không những là áng thiên cổ hùng văn về tư tưởng tự chủ tự cường của dân tộc mà còn là bản cáo trạng luận tội giặc Minh xâm lược, chỉ rõ sự độc ác nhơ bẩn của chúng.

Đoạn thơ thứ 2 chính là bản cáo trạng đanh thép, vạch trần tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Thừa cơ lợi dụng việc nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh kéo quân vào nước ta, hòng chiếm đoạt đã được Nguyễn Trãi vạch rõ:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh”

Vào năm 1406, giặc Minh lấy cớ việc nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần mà huy động 20 vạn bộ binh và thủy binh, cùng với hàng chục dân phu vận chuyển dưới quyền chỉ huy của năm tướng là Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc. Chúng chia làm hai cánh kéo vào xâm lược nước Đại Việt ta, cánh thứ nhất dưới sự chỉ huy của Trương Phụ đi theo đường Bằng Tường, Quảng Tây mà tiến vào Lạng Sơn; cánh thứ 2 do Mộc Thạnh chỉ huy đi theo sông Hồng kéo xuống. Chưa dừng lại ở đó, quân Minh còn sai người mang sắc đến dụ vua Chămpa nhằm phối hợp để đánh quân ta ở biên giới phía Nam.

Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác đó “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động dã man của chúng. Chúng vơ vét hết mọi tài sản – không những bao gồm vật chất, sức người, sức của dân ta mà chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, tàn hại cả giống côn trùng và cả cây cỏ. Hơn những thế, chúng còn tàn sát con người mà không hề biết ghê tay:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”

Đây là một hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát như một lời cáo trạng, lời buộc tội quân giặc. Dân đen là những kiếp người nhỏ bé tận cùng dưới đáy của xã hội. Họ là nạn nhân của tội ác mà quân giặc đã gieo rắc lên bờ cõi của dân tộc ta. Chắc hẳn hai câu thơ được viết nên bởi máu và nước mắt của người anh hùng dân tộc.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”

Bằng biện pháp phóng đại, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ những điều bại hoại nhân nghĩa, luân lí mà giặc Minh đã làm với dân tộc ta qua hình tượng “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Thực vậy, tội ác chúng gây ra nhiều không kể xiết đến nỗi ghi tạc chúng lên thân trúc Nam Sơn cũng chẳng hết, hình tượng này cho thấy sự căm phẫn lên đến tột độ của nhân dân đối với sự bạo ngược của quân xâm lược. Chẳng những quá đỗi tàn bạo, giặc Minh còn thi hành những chính sách hết sức nhơ bẩn, đê hèn và quỷ quyệt nhằm bẻ gãy ý chí dân tộc, tinh thần chiến đấu và âm mưu biến nước ta thành quận huyện, đồng hóa dân tộc ta thành người Hán và vĩnh viễn xóa sổ người Việt khỏi cõi trời đất. Chính vì lẽ ấy mà tác giả Nguyễn Trãi đã dành hẳn một phần lớn trong tác phẩm để đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng hùng hồn nhằm luận tội lũ giặc tàn bạo và xảo quyệt.

Hai câu thơ cuối là lời kết án vô cùng đanh thép:

“Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần nhân chịu được?”

Ý của tác giả ở đây là tội ác của giặc Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ trời, hành động tàn ác đầy nhơ bẩn của chúng đến cả thần và người đều không có cách nào tha thứ.

Đây là một bản cáo trạng đanh thép tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm đô hộ nước ta. Để tăng thêm tính thuyết phục cho toàn đoạn tác giả đã đan xen sử dụng hài hòa giữa hai hình ảnh mang tính chất khái quát và hình ảnh có tính cụ thể, sinh động.

Bằng cái tài và cái tâm của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho Bình Ngô Đại Cáo xứng đáng là áng văn thiên cổ hùng văn của dân tộc thời đó, thậm chí là bây giờ.

4. Bài văn phân tích đoạn 2 của tác phẩm Bình Ngô đại cáo

Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim “ ưu thời ái quốc” - thâm thúy, sắc bén đầy biến hóa trong tài mưu lược chính trị; nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những vần thơ viết về thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào vóc dáng dân tộc. Định mệnh có thể khiến con người ta sinh ly tử biệt song, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô Đại Cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tác phẩm gồm 4 phần: phần 1 nêu luận đề chính nghĩa, phần 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 tuyên bố kết quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Bài viết sau đây sẽ chỉ làm rõ tội ác của giặc Minh qua phần 2 của tác phẩm.

Sau hơn 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, tháng 1 năm 1428 nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước. Sau chiến thắng, Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô Đại Cáo để tuyên bố cho toàn dân biết công cuộc cứu nước đã thắng lợi. Từ đây, dân tộc sẽ bước vào một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên hòa bình.

Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc trên các lĩnh vực triều đại, văn hóa, biên giới, lịch sử, Nguyễn Trãi trình bày cho toàn dân thiên hạ biết về âm mưu xâm chiếm nước ta một lần nữa của bọn giặc Minh:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh”

Nhà văn chỉ rõ nguyên nhân do chính sự nhà Hồ gặp rắc rối cho nên giặc Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để hòng xâm chiếm nước Đại Việt. Không chỉ quân giặc ngoại xâm mưu mô xảo trá mà bọn nội phản trong nước cũng ngóc đầu dậy bán nước cầu vinh. Chúng nghe theo lời của giặc ngoại xâm, chấp nhận làm tay sai cho chúng.

Nhưng đau đớn hơn, là tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ, đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện lương, một lòng gắn bó với tấc đất, với nhà cửa ruộng vườn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược lúc bây giờ, lũ cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Lẽ nào trời đất dung tha? 

Ai bảo thần dân chịu được?”

Chúng hiện lên như những con quỷ béo mỡ, đáng sợ. Với cái miệng rộng và hàm răng quỷ dữ ấy chúng bắt nhân dân ta nay xây nhà mai đắp đất. Rồi ai phục dịch chúng cho vừa, nặng nề và tan tác cả nghề canh cửi. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo cấu trúc câu “độc ác thay…” “Dơ bẩn thay…” nhằm nhấn mạnh vào sự khinh bỉ và căm phẫn tội ác của giặc Minh. Tội ác của chúng dẫu có bao nhiêu trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội, nước Đông Hải có nhiều cũng không rửa sạch mùi. Tội ác tày trời đất chẳng lẽ nào dung tha cho chúng, lòng dân sẽ nổi dậy.

Như vậy, phần một và phần hai của bài cáo đã khẳng định chủ quyền của nhân dân Đại Việt. Đồng thời vạch rõ âm mưu xâm chiếm của giặc Minh. Tội ác của chúng được phơi bày ra cho toàn dân thiên hạ được biết. Tội ác của chúng không thể nào dung tha. Bài cáo sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như đối lập, miêu tả, so sánh kết hợp với lối văn biền ngầu tự do đã thể hiện rõ được nội dung mà tác giả muốn trình bày.