Qua phân tích bài thơ Vội vàng anh chi hãy làm sáng to nhận định trên

BÀI LÀM

Xuân Diệu là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Theo nhà phê bình văn học Hoài Thanh, “Xuân Diệu là nhà Thờ mới nhất trong các nhà Thơ mới”. Bài thơ Vội vàng, một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của thi sĩ trước Cách mạng tháng Tám, rút từ tập Thơ thơ, là một minh chứng hùng hồn cho nhận định đó.

Vội vàng là khúc tư bạch, là lời giãi bày chân thành và thiết tha của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, say đắm về triết lí sống gấp, sống vội để tận hưởng một cách trọn vẹn những tinh túy của mùa xuân và cuộc đời.

Bài thơ “mới” trước hết trong cái nhìn, trong quan niệm của thi nhân về cái đẹp của cuộc đời. Xưa nay mọi người vẫn thường mơ ước vươn tới những cõi bồng lai tiên cảnh, những chốn ảo mộng, hư huyền, những vẻ đẹp không có trên trần thế. Trong các nhà thơ trong phong trào Thơ mới, Thế Lữ là một ví dụ điển hình. Nhưng Xuân Diệu mang một quan điểm hoàn toàn khác. Ông mời gọi, ru bước chân người đọc vào ,một “thiên đường trần thế”, gần gũi như cỏ cây mà đẹp lạ lùng tựa khu vườn địa đàng. Bằng con mắt “tươi non” và “biếc rờn” của người nghệ sĩ mang trái tim nhạy cảm và tinh tế, Xuân Diệu khám phá và trân trọng từng chút gì nhỏ bé nhất, bình thường nhất của tạo hóa, bởi tất thảy chúng đều hiến dâng những tuyệt diệu cho đời:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;

Không gian mùa xuân hiện lên trong trẻo, trinh tươi, căng mọng sức sống. Cảnh vật thân quen: có ong bướm trong “tuần tháng mật”, có “hoa của đồng nội xanh rì”, có “lá của cành tơ phơ phất” mang “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. Có lẽ, với Xuân Diệu, cuộc đời bao giờ cũng mới mẻ, thiên nhiên mùa xuân lúc nào cũng tươi non mượt mà. “Thiên đường trần thế” của ông chẳng khác nào một bàn tiệc thịnh soạn với đầy đủ những thức ăn tinh thần quyến rũ, một khu vườn tình nơi “yên anh” cất cao khúc nhạc tình si. Mùa xuân như vị thần hào hiệp mỗi sớm gõ cửa từng nhà ban phát niềm vui. Mùa xuân chính là mùa của niềm vui, hi vọng, mùa của hẹn hò, của những khát khao yêu đương cháy bỏng. Hóa ra chẳng cần đi đâu xa tìm hoa thơm trái lạ, bởi ở ngay quanh ta đã có một thiên đường. Xuân Diệu đã gieo vào lòng người một lẽ sống đẹp đến thế!.

Thơ Xuân Diệu còn mang nét mới trong cách nhìn về mối tương quan vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

“Tháng giêng” - tháng của mùa xuân, mà cũng có thể là những tháng năm tuổi trẻ. được so sánh với “cặp môi gần” - làn môi của người thiếu nữ ta yêu - một so sánh thật táo bạo! “Tháng giêng” không còn là khái niệm thời gian chung chung mà cụ thể, hữu hình. “Tháng giêng” ngon lành, mời mọc, hấp dẫn đáng yêu khi được ướp trong hương tình. Mà với Xuân Diệu, con người không ngừng khao khát yêu và được yêu, thì mùa xuân, tuổi trẻ chính là những gì quý giá nhất. Điều đáng nói ở đây là trong khi các nhà thơ xưa chọn thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người, như cụ Nguyễn Du tả vẻ đẹp nàng Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, của Thúy Vân là “khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” thì Xuân Diệu làm điều ngược lại. Với ông, con người mới là chuẩn mực cho mọi so sánh. Thiên nhiên đẹp hơn, “sống” hơn, đáng yêu hơn khi được so sánh với con người. Quả là một quan niệm rất mới. Nhưng có lẽ, cái “mới” nhất của Xuân Diệu trong áng thơ này, chính là quan điểm sống của ông, một cách sống luôn quấn quýt, hối hả, vội vàng:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mất xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lẽ thường tình, con người ta chỉ nhớ tiếc mùa xuân khi xuân đã trôi qua, chỉ nhớ tiếc kỉ niệm khi kỉ niệm chỉ còn là quá khứ. Nhưng Xuân Diệu, ông “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Với thi nhân, xuân đương tới nghĩa là sắp đến lúc phải giã biệt mùa xuân. Những cái khoảnh khắc đương "xuân thì" rồi sẽ già nua, tàn lìa. Xuân Diệu không ngừng bị ám ảnh về bước đi gấp gáp của thời gian:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Khao khát sống của con người là vô biên, nhưng đời người là hữu hạn. Mùa xuân của đất trời ra đi, rồi sẽ trở lại theo cái vòng tuần hoàn vĩnh cửu của nó. Nhưng mùa xuân của đời người chỉ đến một lần duy nhất trước khi ta trở về với cát bụi. Vì thế, Xuân Diệu mới “bâng khuâng” tiếc cả đất trời. Mùa xuân tươi đẹp là mùa xuân vĩnh hằng, tràn trề nhựa sống như món quà thượng đế ban cho con người. Nhưng có nghĩa lí gì khi con người chẳng còn mãi để thưởng thức mùa xuân. Và từ “tiếc”, Xuân Diệu bày tỏ một ước muốn, một “khát khao” thật Xuân Diệu, thật mới:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Cái ước muốn táo bạo được chế ngự thiên nhiên, vô hiệu hóa bánh xe thời gian để lưu giữ mãi những hương sắc của cuộc đời, của mùa xuân được thi nhân giãi bày thật ý vị. Xuân Diệu khao khát có trong tay mình một năng lực siêu nhiên để được ở mãi cùng “mùa xuân” bởi với ông, tuổi trẻ qua đi thì cuộc đời cũng chẳng còn ý nghĩa nữa. Tuổi trẻ là độ sung mãn nhất của một đời người, khi ta được sống trọn vẹn những đam mê rạo rực, những yêu đương cháy bỏng.

Đời người là hữu hạn, tuổi trẻ rồi cũng sẽ qua, vậy làm sao tận hưởng trọn vẹn mùa xuân - “thiên đường nơi trần thế"? Chỉ có thể vĩnh hằng hóa cái hữu hạn về lượng bằng cái vô hạn về chất. Nghĩa là biết quý trọng từng phút, từng giây, sống chân thành, say đắm hết mình. Xuân Diệu giục giã chính mình và những người đang ở vào quãng đẹp nhất của cuộc đời:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Nhà thơ Thanh Hải trong bài Mùa xuân nho nhỏ cũng từng nhắc nhở chúng ta phải biết sống một cuộc đời ý nghĩa, sống cống hiến để tuổi trẻ trôi đi không hoài phí “Ta làm con chim hót - Ta làm một nhành hoa”. Nhưng Xuân Diệu, với Vội vàng, đã giục giã, thức tỉnh ta bằng những vần thơ cuồng nhiệt hơn, hối hả và mãnh liệt hơn:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!

Ta như lắng nghe được nhịp tim gấp gáp, hối hả, tràn trề nhiệt huyết của chàng trai đang độ mười tám, đôi mươi. Lời thơ như những con sóng bạc đầu trên biển cả, từng đợt sóng tình cảm cứ dâng lên hết lớp này đến lớp khác. Câu chữ cứ chen chúc, xô đẩy nhau như sợ không theo kịp mạch cảm xúc dạt dào. Điệp từ “ta muốn” lặp lại bốn lần khẳng định một khao khát dữ dội, mãnh liệt. Dường như trong một khoảnh khắc, thi nhân muốn bật tung cánh cửa tâm hồn mình để ôm, để thâu trọn tất cả tinh túy của cuộc đời của mùa xuân vào trong. Hàng loạt những động từ mạnh được sử dụng với cấp độ tăng tiến: “ôm” -"riết“ - “say” - “thâu” bày tỏ sự gấp gáp, cuống quýt, hối hả, vội vàng của tác giả để nắm lấy, chiếm giữ, hưởng thụ ở mức độ cao nhất những cái đẹp của thiên đường trần thế”. “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”'- cuộc đời rộng mở quá, phong phú quá, làm sao tận hưởng cho trọn những tuyệt diệu xung quanh mình? Chỉ có cách là sống hết mình, sống cuồng nhiệt, đắm say “Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng. Cho no nê thanh sắc của thời tươi”.

“Chếch choáng“, “đã đầy”, “no nê” đều là những động từ diễn tả một trạng thái say mê, ứ tràn, thuê thoa. Xuân Diệu khát khao được “thâu” trọn vũ trụ tươi đẹp vào tâm hồn để được nhập hòa làm một. Khát khao cháy bỏng, tha thiết làm rung động lòng người! Xuân Diệu không chấp nhận một cách sống mờ mờ nhân ảnh, uể oải, rệu rạo. sống là phải dốc trọn nhiệt tâm của mình, sống cho trọn chữ “sống”, sống làm sao để thâu hết ý nghĩa của cuộc đời khi tuổi trẻ đã đi qua.

Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!

Một tiếng thốt lên tha thiết, mới mẻ chưa từng có trong văn chương! Nơi đây, lòng yêu đời, niềm khát khao sống thăng hoa hơn bao giờ hết. Cuộc đời trở thành một trái đời đỏ hồng, căng mọng, hấp dẫn mà Xuân Diệu khao khát được “cắn” để tận hưởng cho trọn những giọt lành của nó.

Với bài thơ Vội vàng, Xuân Diệu khẳng định thêm nhận định của Hoài Thanh về mình. Những lời thơ rống riết, giục giã như hồi chuông thức tỉnh lòng ta. Cuộc đời tươi đẹp và đáng quý biết bao! Hãy sống gấp, sống vội vã để tận hưởng hết những giá trị của cuộc đời, đi trọn những đam mê của tuổi trẻ.

Đến với Thơ mới là đến với thế giới cảm xúc muôn cung nghìn bậc, thế giới nghệ thuật muôn hình vạn trạng. Một Thế Lữ “rộng mở”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị”… Họ đều là những cái tên không thể bỏ quên khi nhắc về Thơ mới. Nhưng sẽ mãi mãi là thiếu sót, là chưa đủ nếu không có sự góp mặt của Xuân Diệu.

Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của thơ mới. Những tên gọi đầy trân trọng ấy đã xác lập một chỗ đứng riêng cho Xuân Diệu trong làng thơ, để đến tận hôm nay người đời vẫn không thôi nhắc đến và ngưỡng mộ.

“Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”.

“Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”. “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: tắt nắng, buộc gió.

Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng. Nhịp thơ nhanh, cách điệp câu nhịp nhàng, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy.

Bằng con mắt “xanh non biếc rờn” cùng lòng yêu cuộc sống, bằng “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thức sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây.

Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân.

Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế. Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch:

Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần

Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất

Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi.

Ta chợt ngộ ra, cái đẹp của con người trong mắt nhà văn mới là cái đẹp chuẩn mực. Chính con người mới là trung tâm cho mọi sự so sánh. Rõ ràng ở đây có cả một sự thay đổi lớn về quan niệm thẩm mỹ. Người xưa ví vẻ đẹp người con gái với hoa, núi, nước, mây, ví khí phách người anh hùng như mai, trúc, phượng, điểu.

Còn Xuân Diệu trong cái nhìn của một con người hiện đại lại chỉ luôn mong muốn tôn vinh con người.Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh một xúc cảm khác: Lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy. Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Em, em ơi. Tình non sắp già rồi

Nhưng nghĩ một cách sâu hơn, thì có thể thấy tình yêu cuộc sống và nỗi ám ảnh thời gian của nhà thơ là hoàn toàn biện chứng. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, con người càng tiếc thời gian và tuổi trẻ bấy nhiêu, huống chi là Xuân Diệu – một người có khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời.

Với Xuân Diệu cái đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người là mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Trôi qua những cái đó, cuộc đời chỉ còn là vô nghĩa. Nỗi ám ảnh và sự hối thúc về thời gian của nhà thơ còn cho ta một nhận thức về nhân sinh: Cuộc đời vô thủy vô chung, dòng đời trôi không đứng đợi, tuổi trẻ chẳng thắm lại lần hai và mùa xuân chẳng bao giờ quay lại. Triết lí ấy lại là một bước tiến vượt bậc trong tư tưởng của nhà thơ.

Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”.

Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng buồn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa

Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…

Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi.

Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa…”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”.

Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ xưng “tôi” ở đầu bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” như nói lên một khát vọng chung cho mọi người – khát vọng hòa nhập.

Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn.

Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác.

Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả.

Và một lẽ tất nhiên, để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật không thể bỏ ngoài các yếu tố về hình thức nghệ thuật. Xuân Diệu “mới” không chỉ ở tư tưởng mà “mới” cả ở cách thể hiện. Thể thơ tự do với sự chuyển mạch, co duỗi linh hoạt theo cung bậc cảm xúc, các phép tương giao ảnh hưởng của thơ tượng trưng cũng sử dụng triệt để. Những câu thơ vắt dòng, từ ngữ táo bạo và hình ảnh tân kì cũng góp phần làm nên một thi phẩm “rất Xuân Diệu”.

Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Video liên quan

Chủ Đề