Quan niệm thời gian trong văn học trung đại

1. Tú Xương xuất hiện như một hiện tượng độc đáo trong lịch sử thi đàn nước ta cuối thế kỉ XIX. Thơ ông thu hút được đông đảo sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình cũng như của công chúng yêu thích văn học từ trước đến nay. Các công trình nghiên cứu về thơ Tú Xương, với nhiều hướng tiếp cận và nhìn từ nhiều phương diện khác nhau, đã cung cấp cho người đọc hôm nay một cái nhìn phong phú, lý thú về hiện tượng văn học tương đối phức tạp này. Tiếp nối các công trình của những người đi trước, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu phương diện thời gian nghệ thuật trong thơ Tú Xương như một sự bổ sung cần thiết, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về thơ Tú Xương từ góc nhìn thi pháp, hi vọng góp thêm những kiến giải mới cho thấy cá tính sáng tạo của nhà thơ cũng như phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. 

2. Bên cạnh quan niệm nghệ thuật về con người và không gian nghệ thuật, vấn đề thời gian nghệ thuật cũng là một phương diện trọng yếu được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm khi tiếp cận các hiện tượng văn học trong tính hệ thống. Tiếp cận thơ Tú Xương, chúng tôi nhận thấy, tương ứng với cái nhìn về con người, cảm nhận của nhà thơ về thế giới qua hình thức tồn tại cơ bản của nó – không gian và thời gian – thể hiện rõ cá tính sáng tạo của chủ thể. Đặc biệt, trong cách cảm thụ thời gian giữa Tú Xương so với các nhà nho trước và cùng thời, chúng tôi nhận thấy vừa có nhiều nét tương đồng [song không hoàn toàn đồng nhất], lại vừa có những nét khác biệt. 

2.1 Thơ Tú Xương với những nét riêng trong cảm quan thời gian tuần hoàn và thời gian đời người ngắn ngủi 

Là một nhà nho, cảm quan thời gian của Tú Xương dĩ nhiên không khỏi chịu ảnh hưởng bởi lối tư duy có tính mô hình của văn học cổ trung đại, điều mà nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã có dịp bàn đến [A.Gurêvich trong Các phạm trù văn hóa trung cổ; D.X. Likhachev trong Thi pháp văn học Nga cổ; Trần Đình Sử trong Thi pháp văn học trung đại Việt Nam…]. Chẳng hạn như cách tri giác thời gian theo tuyến tính kết hợp với cách tri giác thời gian theo chu kì, các hình thức thời gian vũ trụ bất biến, thời gian đời người ngắn ngủi…Tuy nhiên, ngay ở những mô thức chung này, ta vẫn nhận ra nét riêng trong cách cảm thụ chủ quan của từng tác giả. 

Thơ Tú Xương có đề cập đến thời gian tuần hoàn:“Xuân đi, xuân lại vô cùng tận”[Đêm xuân trời mưa], thời gian đời người ngắn ngủi:“Ba mươi mốt tuổi đà bao chốc”[Gần tết than việc nhà]…; nhưng so với cảm nhận của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du hay Nguyễn Khuyến, thì quan niệm của Tú Xương lại bộc lộ rõ những nét riêng có tính khu biệt. 

Nữ sĩ họ Hồ dường như bộc lộ rõ vẻ ngao ngán trước cái vòng quay muôn thuở của tạo hóa khi thốt lên:“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại - Mảnh tình san sẻ tí con con”[Tự tình -II]. Ở Nguyễn Khuyến, gắn với cái nhìn thời gian tuần hoàn theo chu kỳ, ông có một số lượng phong phú sáng tác liên quan đến cảm hứng tứ thời, và bước đầu bận tâm đặt câu hỏi về “cái lô gic vận hành của dòng chảy thời gian bất biến”[2; tr. 220] ấy: 

“Dục vấn thiên công lai phục ý? 

Đông phong diệc vị tiếu kha kha! 

[Muốn hỏi ông tạo cớ sao đã đi lại trở lại? 

Gió đông cũng vì thế mà cười ha ha] 

[Đinh Hợi Nguyên đán – I] 

Đến Tú Xương, một mặt ông nhận ra cái dòng chảy lặng lẽ, đều nhịp ấy; rồi ông tự hỏi mình: “Có lẽ ta đâu mắc míu vòng”[Đêm xuân trời mưa], nhưng cũng chính là để tỏ rõ thái độ chán ngán khi phải sống mãi trong cái tuồng lẩn quẩn ấy: “Thằng bé con con đã chán cù”[Hỏi mình]. Biểu hiện đó cho thấy một quan niệm sống tích cực ở Tú Xương. Thái độ của ông trước thực tại đã ngầm biểu lộ một sự phản kháng bên trong. Dù trong “Ngẫu hứng” ông có viết: “Sao bằng đi học làm ông phán – Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”, nhưng đúng như nhà thơ Tú Mỡ đã từng dí dỏm rằng:“Tú Xương nói dỡn vậy thôi, chứ ai chẳng biết ông đâu có thèm hạ mình làm việc cho Tây, làm bồi bếp, làm hạng “thái vô ích, sáng vác ô đi, tối vác về” để hưởng chút miếng ăn miếng uống của nô lệ”[10; tr. 35]. 

Và nếu như Nguyễn Khuyến bị ám ảnh bởi dòng thời gian sinh mệnh đời người ngắn ngủi, kèm theo hình ảnh có tính biểu tượng: “mái tóc bạc” xuất hiện nhiều lần trong thơ ông, thì Tú Xương, trong “Ngẫu hứng”, lại quan niệm:“Trăm năm tính đốt hẳn còn lâu!”. Có ai ngờ đằng sau thái độ có vẻ ngông hay như đang đùa cợt ấy, lại là một ý niệm có tính mục đích rõ ràng:“Sống lâu […] để xem cuộc chuyển vần!”[Tự trào]. Thực chất, cái nhìn về sự hiện diện của đời người trong kiếp sống ở Tú Xương hoàn toàn khác Nguyễn Khuyến, bởi ông nhìn thẳng vào thực tại; sự tồn tại đối với ông bằng nghĩa ông đã sống như thế nào và làm được những gì trong thời buổi ấy, từ đó mà câu chuyện “trăm năm” - đời người trong thơ Tú Xương đã trở nên khác hẳn: “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ - Đem chuyện trăm năm giở lại bàn”[Làm quan tại nhà], “Một việc văn chương thôi cũng nhảm – Trăm năm thân thế có ra gì?”[Buồn thi hỏng]. Nếu hai tiếng “trăm năm” trong thơ Xuân Hương là để nói đến cái nghĩa tào khang “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa”[Không chồng mà chửa], trong thơ Nguyễn Du là để nhắc đến “hương lửa ba sinh”, đến sự thủy chung vẻn vẹn“Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”[Truyện Kiều], thì đến Tú Xương, ông lại dựa vào đó để phô bày một hiện thực khác: “Ra đường đáng giá người trinh thục - …Trăm năm trăm tuổi lại trăm chồng!” [Để vợ chơi nhăng]. Từ đó, có thể hiểu, vì sao ông còn có thái độ của một người sống trong hiện tại, ý thức được thời gian ngắn ngủi chóng tàn, nhưng ông“không thương xót và cố níu kéo thực tại như Hồ Xuân Hương, cũng không tranh thủ hưởng thụ như Nguyễn Công Trứ và không “vội vàng” sống gấp như các nhà thơ Mới sau này, mà chỉ “ngoài vòng cương tỏa thảnh thơi”, ung dung tự tại nhàn dật như các nhà Nho ẩn dật”[3; tr. 181]. Tất nhiên, trong thơ Tú Xương ta vẫn thấy rõ lối sống hưởng lạc gắn với kiểu “con người trượt chuẩn”[Hồ Giang Long], nhưng quan niệm về hưởng lạc giữa Tú Xương và Nguyễn Công Trứ lại rất khác nhau. Nguyễn Công Trứ từ chỗ ý thức cuộc đời ngắn ngủi đã tìm cách làm chủ thời gian và cố gắng tận hưởng nó trong hiện tại. Tinh thần hiện sinh ấy thể hiện rõ nét qua các bài “Chơi xuân kẻo hết xuân đi”, “Trong trần mấy mặt làng chơi”, “Kiếp nhân sinh”… Ở Tú Xương, một mặt trước sự tác động của xã hội thị thành đầy cám dỗ cộng với cái nhìn đầy bất mãn trước thực tại, ông đã không khỏi chịu sự lôi kéo mà tìm đến những thú vui có lúc tưởng như quên mình, nhưng thực chất, đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc từng nhận xét, Tú Xương không nâng sự ăn chơi của mình lên thành “triết lí sống”, thành “mục đích sống”, cũng như không bao giờ tỏ ra thỏa mãn thực sự khi nói đến ăn chơi. Tâm sự của nhà nho Vị Xuyên nằm ở chỗ khác: 

“Bởi vì nỗi nước nên ra sức 

Bao quản phong trần mảnh áo đơn” 

[Vịnh tát nước] 

Nhưng: 

“Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt 

Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ” 

[Lạc đường] 

Vì vậy, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không thấy được tấn bi kịch trong bề sâu con người hưởng lạc ấy. Trong một Tú Xương “Cao lâu thường ăn quỵt – Thổ đĩ lại chơi lường”, còn ẩn kín một con người khác: con người với một nỗi lòng đau đáu về vận nước thường trực mỗi lúc đêm về. 

2.2 “Đêm” – Biểu tượng không - thời gian tâm trạng trong thơ Tú Xương 

Hồ Giang Long trong “Thi pháp thơ Tú Xương” đã có đề cập đến “không gian đêm tối” như một hình thức không gian đời tư, đồng thời như một ẩn dụ trong thơ Tú Xương:“Hình ảnh bóng đêm trong thơ ông làm ta liên tưởng đến xã hội bế tắc không lối thoát lúc bấy giờ”[4; tr. 86]. Song, chúng tôi nhận thấy rằng, hình tượng “đêm” trong thơ Tú Xương không chỉ gắn với ý niệm không gian, mà nó còn mang trong mình những giá trị, ý nghĩa thời gian thẩm mỹ. Vì vậy, một cách hợp lí hơn có thể gọi “đêm” trong thơ Tú Xương là một biểu tượng không – thời gian. 

Thực chất, hai phạm trù thời gian và không gian vốn có mối quan hệ, nhất là trong sáng tạo văn học nghệ thuật [1]. Và trong nhiều trường hợp, không phải lúc nào cũng có thể tách bạch rõ ràng giới hạn giữa không gian và thời gian trong các sáng tác, đặc biệt là sáng tác của các nhà thơ thời trung đại. Chẳng hạn, ở Nguyễn Khuyến “ý thức đi tìm thời gian đã mất” – thời gian quá khứ - trong thơ ông thể hiện qua những phế tích bia, chùa, đền miếu, tức thời gian đặc trưng này gắn với một không gian đặc trưng mang rõ tính quan niệm của Nguyễn Khuyến”[2; tr. 202]. Hay trường hợp“đêm” trong thơ Tú Xương cũng là một thí dụ điển hình. “Đêm” xuất hiện như một ý tượng trong cảm hứng sáng tạo của Tú Xương: “Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”. Ở các bài như “Đêm buồn”, “Dạ hoài”,…ta còn thấy rõ xúc cảm của thi nhân mã hóa vào “đêm”. “Đêm” trong thơ Tú Xương, vì vậy, nghiễm nhiên trở thành một tín hiệu thẩm mỹ độc đáo chờ người đọc giải mã. 

Thường trong cảm thức dân gian, “đêm” hay gợi nỗi nhớ: “Đêm nằm lăn trở thở than – Nửa đêm nhớ bậu hai hàng lụy sa”, hoặc nỗi sầu buồn, tương tư: “Đêm nằm tơ tưởng tưởng tơ – Chiêm bao thấy bậu, dậy rờ chiếu không”. Trong thơ cổ “đêm dài” lại trở thành một biểu tượng mang tính ước lệ, tượng trưng; đó là “Đêm trường dạ tối tăm trời đất”trong thơ Nguyễn Du, là “Đêm dài” ngụ chỉ tình hình đen tối của xã hội trong thơ Từ Diễn Đồng:“Đêm sao đêm mãi tối mò mò - Đêm đến bao giờ mới sáng cho”… Nhưng đến “đêm” trong thơ Tú Xương thì nó không còn là không – thời gian vật lí như trong thơ ca dân gian, cũng không còn là không gian – thời gian có tính ước lệ sáo mòn trong thơ cổ, “đêm” trong thơ Tú Xương đã gắn chặt với hiện thực tâm lí, đó là những “Đêm buồn”, là “tâm sự năm canh một ngọn đèn” gắn với “Dạ hoài”…bộc lộ rõ nét tâm trạng của chủ thể cảm thụ, thể hiện một nét khác lạ trong cảm nhận về thời gian của Tú Xương – nghiêng sang phạm trù của kiểu tư duy thơ hiện đại, mà sau này ta còn gặp lại phổ biến trong thơ Mới. Chẳng hạn ở “Buồn đêm mưa” của Huy Cận: 

“Đêm mưa làm nhớ không gian 

Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la 

Tai nương giọt nước mái nhà 

Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn” 

Thực chất nỗi buồn từ trong thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, cho đến cả thơ Mới đều có chung một nguyên nhân, xuất phát từ tâm thế của người dân trong thời đại mất nước. Tất nhiên, thái độ và biểu hiện gắn với quan niệm của từng cá nhân có khác nhau. Ta bắt gặp một Nguyễn Khuyến sầu não, tuyệt vọng trong đau khổ vì bất lực và bế tắc; ở một Tú Xương thân xác “nằm ở phía tối nhưng hồn thi nhân lại thuộc về nguồn sáng”[4; tr. 87], luôn luôn chờ đợi một điều gì đó còn chưa đến ở tương lai; các thi sĩ thơ Mới thì lẫn trốn thực tại và tìm vào mộng như một sự phản ứng trước thời thế khi họ còn chưa bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là những cõi lòng đau đáu thiết tha hướng về đất nước. Cái buồn “không hiểu vì sao tôi buồn” hay cái buồn triền miên tiếp nối trong thơ Tú Xương “Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”, vì vậy, hoàn toàn có thể hiểu và giải thích được. 

2.3. Thơ Tú Xương với cảm quan thời gian thực tại 

Nhìn vào thực tại mà chán chường, tuyệt vọng, Nguyễn Khuyến tìm về quá khứ. Thơ ông, vì vậy như luôn chìm trong mạch cảm hứng “hoài cổ”, “hồi cố”, “hồi thủ”, “ngoảnh lại”, “nhìn lại”… Ngược lại, trong thơ Tú Xương, thời gian quá khứ không được ông nhắc đến nhiều. Thảng hoặc trong các sáng tác của ông có đề cập đến hoài cổ hay những năm xưa, thuở trước, ngày xưa, ngày trước… nhưng không phải ông tìm về quá khứ để vin vào nó và sống trong đó như Nguyễn Khuyến, mà tất cả dường như chỉ để trình bày một ý niệm riêng của ông về thực tại. Như “Than nghèo”:“Biết thân thuở trước đi làm quách – Chẳng kí, không thông, cũng cậu bồi!”, “Mừng chú làm nhà”: “Ông bà ngày trước có gì đâu - Chú thiếm ngày nay đã lại giàu”. Và phải chăng do vậy mà ở bài thơ Sông lấp, Trần Đình Sử đã nhận định“ông hoài cổ trước một di tích sinh hoạt như sông Lấp, tức sông Vị Hoàng để cảm sự biến đổi hơn là nhớ tiếc”[6; tr. 224]? 

Dễ nhận thấy nhất trong thơ Tú Xương vẫn là thời gian thực tại gắn với những biến cố, sự kiện cụ thể, có thể tạm gọi là “thời gian sự kiện”, và tương ứng với nó là “không gian thế sự” hay “không gian trần tục”[Trần Thị Trâm]. Thường gặp trong thơ ông là những cụm từ xác định thời gian cụ thể như “ngày nay”, “khoa này”, “năm này”, “năm nay”, “lâu nay”, “buổi bạc tình”, “đầu năm”, “ba ngày tết”… hay có khi thời gian còn được tác giả xác định rõ ở ngay tựa đề bài thơ : “Năm mới chúc nhau”, “Hỏng khoa Canh Tý”, “Lụt Bính Ngọ”, “Ngày xuân của làng thơ”, “Gần Tết than việc nhà”, “Mồng 2 Tết viếng cô Kí”, “Xuân”,…Và ứng với từng thời điểm ấy thường là những sự kiện nổi bật mang tính “có vấn đề”. Chẳng hạn như “khoa thi này” với sự kiện Bác cử Nhu - một nhà bán thuốc - được cử làm chủ kì sơ khảo trường Nam khoa Canh Tý: 

“Sơ khảo khoa này bác cử Nhu 

Thật là vừa dốt lại vừa ngu 

Văn chương nào phải là đơn thuốc 

Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu” 

[Bác cử Nhu] 

Hoặc là một sự thật về “đạo học” của “ngày nay”: 

“Đạo học ngày nay đã chán rồi 

Mười người đi học chín người thôi 

Cô hàng bán sách lim dim ngủ 

Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi 

Sĩ khí rụt rè gà phải cáo 

Văn trường liều lĩnh đầm ăn xôi…” 

[Than đạo học] 

Qua đó, có thể thấy trong “không gian trần tục” và “thời gian sự kiện” ấy, nổi rõ lên một kiểu“con người không sống lặng lẽ, chiêm nghiệm mà hối hả nhập cuộc, tạo ra một độ căng tâm lý, làm cho người đọc có cảm giác về một sự bất ổn, một xã hội hỗn độn, đang bị xáo trộn trong quá trình thị dân hóa”[9; tr. 384]. Và bằng việc đưa nghệ thuật trở về với cuộc sống thường nhật của con người, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú,“Tú Xương xứng đáng là nhà thơ tiên phong, cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất trong việc viết về người thực, việc thực”[9; tr. 247]. 

Phương thức tả thực chi tiết thực chất đã xuất hiện khá phổ biến trong thơ Nguyễn Khuyến, song đích hướng đến của hai nhà thơ lại khác nhau. Nguyễn Khuyến cũng nói đến cái “bây giờ”, “ngày nay”, “đời nay”, “năm này”…, ông vẽ lại tất cả dưới con mắt của một người chứng kiến nhưng để qua đó mà cảm thương, mà đau buồn, mà khóc cười lẫn lộn. Và lựa chọn cuối cùng, như đã nói, ông tìm vào quá khứ như một nơi khả dĩ có thể nương náu để tự an ủi và giữ cho tâm thanh sạch. Trái lại, Tú Xương đối mặt với thực tại nhiễu nhương, thối nát ấy để mà phê phán, đả kích, bóc trần tất cả, đồng thời cũng là để tự trào. Do vậy có người đã lí luận rằng, đều phản ánh hiện thực, song thơ Nguyễn Khuyến thiên về cảm hứng trữ tình bởi chất trữ tình trong thơ ông đậm đặc hơn; ngược lại, thơ Tú Xương thiên về cảm hứng trào phúng, bởi tính chất trào lộng trong thơ ông rõ nét hơn. Dễ nhận thấy nhận định này chưa thật thỏa đáng đối với thơ của ông Tú Vị Xuyên, nhưng trong chừng mực nào đó, sự lí giải này cũng có phần hợp lí trên cơ sở nhận diện cảm hứng nổi trội ở từng nhà thơ. 

2.4. Thời gian tuyến tính và thời gian mang tính dự cảm – nét mới trong cảm quan thời gian của Tú Xương 

Chọn một thời điểm cụ thể nào đó ở hiện tại để tự tình, có vẻ như thơ Tú Xương vẫn còn in dấu cách tư duy thời gian theo cảm quan của thơ ca các nhà Nho trước đó. Bởi “quan niệm thời gian tĩnh tại khiến các nhà thơ ít khi miêu tả tính liên tục, mà thường miêu tả thời điểm. Trong bài thơ có thể nói đến các thời điểm khác nhau, bởi đã nói là thời gian tĩnh thì chọn một hay nhiều thời điểm đều như nhau”[6; tr. 201]. Song, Tú Xương không chỉ dừng lại ở kiểu cảm thụ đó! 

“Sắm sửa năm nay khéo thực là 

…Sang năm quyết mở ngôi hàng mứt” 

[Mứt rận] 

“Năm nay ta học năm sau đỗ” [Than thân chưa đạt] 

“Đêm qua anh đến chơi đây 

…Rạng ngày sang trống canh năm” 

[Đi hát mất ô] 

“Khoa trước đã chầy khoa sau hẳn chóng” [Bài phú hỏng thi] 

“Bấm tay tháng nữa hết năm rồi” [Gần tết, than việc nhà] 

“Từ rày thây mẹ quan viên hội” [Giễu ông Đội] 

Cái nhìn thời gian tuyến tính xuất hiện như một dòng cảm hứng nổi bật trong hàng loạt sáng tác của Tú Xương, cho thấy, đã có một sự đổi mới nhất định trong cảm quan thời gian của thi nhân. Cảm hứng mới mẻ về thời gian này đã được cấp cho một tên gọi là “cảm hứng về thời gian sinh hoạt con người tuyến tính”[Đoàn Hồng Nguyên]. 

Ở một cái nhìn chung, Trần Đình Sử nhận định:“Trong thơ Cao Bá Quát, thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương chỉ nổi lên một thời gian kéo dài, không có viễn cảnh tương lai. Bài “Đêm dài” của Tú Xương báo hiệu sự sốt ruột đợi chờ thay đổi”[6; tr. 212 – 213]. Tuy vậy, khi xét riêng cảm hứng thời gian nổi bật ở từng nhà thơ, chúng ta vẫn có thể nhận ra nét riêng ở từng phong cách. Nếu như Nguyễn Khuyến chỉ có quá khứ và hướng về quá khứ [Biện Minh Điền], Nguyễn Công Trứ đóng khung trong thời hiện tại [Trần Đình Sử] thì, ở Tú Xương, trong cái nhìn thời gian tuyến tính của ông dường như luôn tồn tại một tầm mắt hướng nhìn về tương lai:“Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa”, cho dù đối mặt với thực tại ông không khỏi xót xa, chán ngán: Đêm sao đêm mãi thế ru mà”[Đêm dài]. Song, đáng quý hơn cả là chút hi vọng mong manh ở ngày mai ấy trong Tú Xương không hề tàn lụi:“Tối lâu lâu cũng sáng dần ra”[Giời hôm]. Nhưng vì vốn là người ý thức sâu sắc sự hiện tồn bản thân, cũng như thấy rõ sự bất lực của bản thân trước thời cuộc, nên ông đã sớm có dự cảm về cái “ngày mai” của chính mình: 

“Hễ mai tớ hỏng tớ đi ngay 

Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày” 

[Hễ mai tớ hỏng] 

Có nhìn thấy những tia hi vọng nhỏ nhoi bên cạnh sự lựa chọn cuối cùng của nhà thơ, ta mới thấu hiểu đến tận cùng bi kịch con người Tú Xương! 

Có thể nói, so với cảm quan thời gian trong sáng tác của các nhà nho trước và cùng thời với Tú Xương, thì không đâu biểu hiện rõ nét những lệch chuẩn, phá cách như trong thơ của nhà nho Vị Xuyên này. Nguyễn Khuyến tuy có mới mẻ khi nói đến thời gian chu kỳ với những: xuân hàn, xuân bệnh, xuân sầu,… nhưng ở ông vẫn chưa có được một sự bức phá như Tú Xương. Biểu tượng bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông cùng hình ảnh mái tóc bạc cho thấy trước sau Nguyễn Khuyến vẫn là nhà thơ của quy phạm. Trong thơ Tú Xương, ngược lại, ta thấy nhà thơ trào phúng này đã thực sự thoát khỏi những biểu tượng, ước lệ đã sờn mòn, và bộc lộ rõ những nét mới mẻ trong cảm quan thời gian – cái nhìn thời gian tuyến tính đối lập với cái nhìn thời gian tuần hoàn, tĩnh tại bất biến của thơ cổ trước đó, và hướng cảm nhận thời gian in đậm màu sắc cá nhân; theo Trần Đình Sử thì chính “yếu tố cảm thụ cá nhân này đã làm cho thời gian trong thơ đa dạng và biến đổi rõ nét”[6; tr. 213]. Như vậy, có thể nói cảm quan thời gian trong thơ Tú Xương không chỉ là những “biến thể” hay “lạ hóa” lối cảm thụ của thơ trung đại, mà đã có hẳn một sự thay đổi về “chất”. Sự biến đổi ấy chính là biểu hiện của chiều hướng tiệm cận với tính hiện đại trong cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật của Tú Xương. 

3. Thời gian nghệ thuật trong thơ Tú Xương vốn là phương diện chưa được quan tâm thỏa đáng trước đây. Qua kết quả khảo sát, phân tích chúng tôi nhận thấy đây chính là một phương diện góp phần bộc lộ rõ cá tính sáng tạo và phong cách độc đáo của thi nhân.Theo thiển nghĩ của người viết, tiếp cận thơ ca của các nhà nho nói chung và của Tú Xương nói riêng trong cái nhìn tương quan với thơ Mới, cũng là dịp để ta nhận diện rõ hơn giá trị thơ cổ và những đóng tích cực của nó trong tiến trình hiện đại hóa văn học văn học Việt Nam. Và trong diễn trình của dòng lịch sử kết tục [Phan Công Khanh], phải chăng kiểu thời gian hiện thực hàng ngày trong sáng tác của Nam Cao, hay kiểu thời gian gắn với cái nhìn bao quát về hiện thực, chú trọng cái ngẫu nhiên, bất thường, đầy kịch tính trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, đã ít nhiều có tiền đề từ trong thơ Tú Xương với kiểu thời gian sự kiện? 

TƯ LIỆU THAM KHẢO

[1] A.Ja.Gurêvich [1996], Các phạm trù văn hóa trung cổ, Nxb Giáo dục. 

[2] Biện Minh Điền [2008], Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb ĐHQG Hà Nội. 

[3] Đoàn Hồng Nguyên [2010], Thơ Tú Xương trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, Nxb Văn học. 

[4] Hồ Giang Long [2006], Thi pháp thơ Tú Xương, Nxb Văn học. 

[5] Phan Công Khanh [2001], Lịch sử tiếp nhận truyện Kiều - Tóm tắt luận án tiến sĩ ngữ văn, ĐHSP TP. Hồ Chí Minh. 

[6] Trần Đình Sử [2005], Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội. 

[7] Trần Đình Sử [2005], Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục. 

[8] Trần Đăng Suyền [2006], Nhà văn – hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học. 

[9] Tuấn Thành – Anh Vũ [tuyển chọn] [2005], Thơ Tú Xương và lời bình, Nxb Văn học. 

[10] Vũ Tiến Quỳnh [tuyển chọn] [1999], Phê bình bình luận văn học – Trần Tế Xương, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. 

Video liên quan

Chủ Đề