Quy định về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình

[PLO]- Quy định hiện nay của Đảng vẫn đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ hai con, chú trọng nuôi dạy con tốt.

Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định 69-QĐ/TW [Quy định 69] về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Một trong những điểm đáng chú ý là quy định mới đã không còn liệt kê các hành vi đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5 bị kỷ luật mà thay vào đó là cụm từ vi phạm chính sách dân số [Điều 52].

Vậy phải chăng Quy định 69 đã bỏ quy định kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5?

Thực tế hiện nay tại Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới có nêu quan điểm: Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ hai con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội.

Như vậy, việc đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5 vẫn có thể xem là vi phạm chính sách dân số và bị kỷ luật theo Quy định 69.

Điều 52, Quy định 69 hướng dẫn hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách dân số như sau:

- Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau gây hậu quả ít nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách:

+ Cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hoá gia đình; tham gia các hoạt động xét nghiệm, chẩn đoán để xác định giới tính thai nhi trái quy định.

+ Vi phạm chính sách dân số.

- Trường hợp vi phạm đã kỷ luật mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức [nếu có chức vụ]:

+ Tuyên truyền, phổ biến hoặc ban hành văn bản có nội dung trái với chính sách dân số, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

+ Gian dối trong việc cho con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi mà thực chất là con đẻ nhằm sinh thêm con ngoài giá thú hoặc trái quy định.

- Trường hợp vi phạm các quy định nêu trên gây hậu quả rất nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ.

Chín trường hợp đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5 không bị kỷ luật

Theo Điều 2 Quy định 05-QĐi/TW năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương quy định việc kết nạp người vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng, có chín trường hợp không bị xử lý kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3, 4, 5.

- Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân [tỉ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỉ lệ chết] theo công bố chính thức của Bộ KH&ĐT.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

- Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

- Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

- Cặp vợ chồng đã có con riêng [con đẻ], quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.

+ Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng [con đẻ].

+ Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng [con đẻ].

- Sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người mẹ [có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên].

- Phụ nữ chưa kết hôn sinh ba con trở lên trong cùng một lần sinh.

- Sinh con thứ ba trở lên trước ngày 19-1-1989 [ngày có hiệu lực thi hành Quyết định 162-HĐBT, ngày 18/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình].

N.THẢO

Sở Y tế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ban hành công văn số 2897/SYT-NV ngày 14/10/2019 về việc xử lý vi phạm về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Thực hiện tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới đã đề ra mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế với nhiệm vụ, giải pháp là tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 02 con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt.

[Ảnh minh họa]

Pháp lệnh Dân số năm 2003 và Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2008 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành là Văn bản pháp lý về dân số có hiệu lực cao nhất, áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Theo đó, mỗi cặp vợ chồng có quyền sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định. Điều 2 Nghị định 20/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 và Điều 01 Nghị định 18/2011/NĐ-CP ngày 17/3/2011của Chính phủ quy định chi tiết Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2008 đã nêu cụ thể những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con là: – Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10 ngàn người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân [tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết] theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. – Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên. – Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên. – Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi. – Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận. – Cặp vợ chồng đã có con riêng [con đẻ]: sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng [con đẻ]; sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng [con đẻ]. Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống. Về việc xử lý vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình: – Đối với người dân: Việc xử lý vi phạm hành chính dân số và kế hoạch hóa gia đình thực hiện theo hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư; – Đối với đối tượng là CBCCVC,NLĐ [không phải là đảng viên]: xử lý theo quy chế của cơ quan, đơn vị phù hợp với pháp luật hiện hành – Đối với Đảng viên thì được xử lý theo Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về xử lý kỷ luật Đảng viên bị vi phạm về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Để đoàn viên, CNVCLĐ trong tỉnh tiếp cận, hiểu và thực hiện tốt các chính sách dân số – kế hoạch hoá gia đình, Liên đoàn Lao động tỉnh đề nghị các cấp Công đoàn trực thuộc thông tin tuyên truyền đến đoàn viên, CNVCLĐ; Đề cao tính tiên phong, gương mẫu cũa mỗi cán bộ, đoàn viên Công đoàn trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, tạo sức lan tỏa trong toàn xã hội./.

TG-NC


Theo quy định tại Điều 27 Quy định 102 năm 2017, Đảng viên bị coi là vi phạm quy định về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

STT

Hành vi

Mức xử lý

1

Gây hậu quả ít nghiêm trọng:

- Cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hóa gia đình;

- Tham gia các hoạt động xét nghiệm, chuẩn đoán để xác định giới tính thai nhi trái quy định.

- Khai báo hoặc xin xác nhận, giám định không trung thực về tình trạng sức khỏe của vợ [chồng], con để thực hiện không đúng quy định hoặc để trốn tránh không bị xử lý do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Khiển trách

2

Sinh con thứ ba [trừ trường hợp pháp luật có quy định khác].

3

Vi phạm các điều nêu trên, đã bị xử lý kỷ luật mà tái phạm

- Cảnh cáo;

- Cách chức [nếu có chức vụ].

4

Vi phạm lần đầu mục 1 và mục 2 nhưng gây hậu quả nghiêm trọng

5

Sinh con thứ tư [trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác]

6

Vi phạm quy định tại mục 1 và mục 2 nêu trên và gây hậu quả rất nghiêm trọng

Khai trừ

7

Sinh con thứ năm trở lên

8

Gian dối trong việc cho con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi mà thực chất là con đẻ nhằm cố tình sinh thêm con ngoài quy định

Trong đó, các trường hợp pháp luật có quy định khác nêu trên được quy định cụ thể tại Điều 27 Hướng dẫn 04-HD/UBKTTW năm 2018. Do đó, các trường hợp sau đây không bị coi là vi phạm về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình:

- Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân [tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết] theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

- Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

- Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

- Cặp vợ chồng đã có con riêng [con đẻ]:

  • Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng [con đẻ];
  • Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng [con đẻ].

Lưu ý: Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.

Riêng trường hợp sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người mẹ [có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên] thì thôi không xem xét, xử lý kỷ luật.

Trên đây là quy định về các trường hợp Đảng viên vi phạm chính sách dân số và các hình thức xử lý kỷ luật. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 1900.6192 để được giải đáp, hỗ trợ.

>> Đảng viên sinh con thứ 3: Toàn bộ quy định mới nhất

Video liên quan

Chủ Đề