So sánh bản chất của các kiểu nhà nước năm 2024

Các kiểu và hình thức Nhà nước 1.1.2.1. Khái niệm kiểu nhà nước Lịch sử xã hội loài người cho đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội trong đó có 4 hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp và tương ứng có 4 kiểu nhà nước: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ bản của nhà nước thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội, những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội có giai cấp nhất định. Các kiểu nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản đều có đặc điểm chung là nhà nước bóc lột, chúng xuất hiện và tồn tại trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, là công cụ duy trì và bảo vệ nền thống trị và lợi ích của các giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản. Còn nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, là nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sự thay thế kiểu nhà nước diễn ra thông qua cách mạng xã hội mà kết quả là kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước trước. 1.1.2.2. Các kiểu nhà nước trong lịch sử

  1. Các kiểu nhà nước bóc lột: nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản. * Kiểu nhà nước chủ nô. Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời khi chế độ thị tộc tan rã. Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ có hai giai cấp chính là nô lệ và chủ nô, ngoài ra còn có các tầng lớp thợ thủ công và những người lao động tự do khác. Chủ nô là một bộ phận thiểu số của xã hội nhưng nắm giữ trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội, còn nô lệ là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nhưng chỉ là “công cụ biết nói” trong tay chủ nô, phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô. Tầng lớp thợ thủ công và những người lao động tự do có địa vị khác với người nô lệ nhưng vẫn trong quỹ đạo chi phối của chủ nô về chính trị, kinh tế, tư tưởng. Nhà nước chủ nô xét về bản chất chỉ là công cụ bạo lực để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô, đàn áp nô lệ và những người lao động khác. Nhà nước chủ nô thực hiện bảo vệ củng cố chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ, đàn áp sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp khác bằng bạo

lực, củng cố hệ tư tưởng tôn giáo và sử dụng nó để thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội. Trong một chừng mực nhất định nhà nước chủ nô cũng tổ chức một số hoạt động kinh tế như quản lý đất đai, tổ chức khai hoang xây dựng và quản lý các công trình thuỷ nông.... Nhà nước chủ nô tiến hành chiến tranh xâm lược, bằng chiến tranh giai cấp chủ nô thực hiện khát vọng làm giàu, cướp bóc của cải, bắt tù binh bổ sung vào đội quân nô lệ và mở rộng phạm vi thống trị. 1

Bộ máy nhà nước chủ nô ở giai đoạn đầu còn đơn giản, mang nhiều dấu ấn của tổ chức thị tộc, chủ nô là người lãnh đạo và là nhà chức trách. Về sau bộ máy phát triển hơn trong đó cảnh sát, quân đội, toà án là những bộ phận chủ yếu cấu thành bộ máy nhà nước. Hình thức chính thể: chủ yếu theo chính thể quân chủ, quân chủ chuyên chế, một số nước có hình thức chính thể cộng hoà. * Kiểu nhà nước phong kiến. Vào giai đoạn cuối của chế độ chiếm hữu nô lệ, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, cộng với sự bóc lột sức lao động của nô lệ đã trở nên kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ ngày càng trở nên gay gắt, dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy của nô lệ: lao động của nông dân trên ruộng đất của các chúa đất đưa năng suất lao động cao hơn lao động của nô lệ và dần dần thay thế lao động của nô lệ; chế độ phong kiến dần dần thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ; nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô. Nhìn chung các nhà nước phong kiến ở Châu Âu và một số nhà nước Châu Á ra đời dựa trên sự tan rã của nhà nước chủ nô. Tuy nhiên cũng có quốc gia trong đó nhà nước phong kiến là đầu tiên như Triều Tiên, Mông Cổ, Việt Nam và dân tộc Giéc- manh ở Châu Âu. Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất mà chủ yếu là ruộng đất, người nông dân không có hoặc có rất ít ruộng đất nên phải phụ thuộc vào địa chủ phong kiến. Xã hội phong kiến có kết cấu giai cấp phức tạp, địa chủ và nông dân là hai giai cấp chính, ngoài ra trong xã hội còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân... Giai cấp địa chủ phong kiến được chia ra nhiều đẳng cấp với những đặc quyền khác nhau về sở hữu ruộng đất, vua hay quốc vương là người có thứ bậc cao nhất trong thứ bậc, đẳng cấp của xã hội phong kiến. Các đẳng cấp phong kiến ở Châu Âu như công, hầu, bá, tử, nam... đều gắn liền với

những mức độ khác nhau về số lượng điền trang, thái ấp mà họ chiếm hữu. Địa vị người nông dân trong xã hội phong kiến có những ưu thế hơn so với địa vị người nô lệ nhưng chưa có sự khác biệt rõ rệt. Nông dân có kinh tế cá thể, được sở hữu đối với nhà cửa, công cụ lao động, ruộng đất [ thường với số lượng ít]. Địa chủ phong kiến không có quyền định đoạt tính mạng người nông dân như trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Người nông dân bị bóc lột dưới hình thức nộp tô bằng hiện vật [thóc gạo, vật nuôi...] hoặc bằng tiền, ngoài ra còn bị cưỡng bức lao dịch cho phong kiến. Mức độ phụ thuộc của người nông dân vào địa chủ phong kiến có khác nhau ở các nước và trong giai đoạn cụ thể của nhà nước phong kiến. Về bản chất, nhà nước phong kiến là công cụ trong tay giai cấp địa chủ phong kiến để thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nông dân, thợ thủ công và các tầng lớp lao động khác, là phương tiện duy trì địa vị kinh tế, bảo vệ lợi ích và sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, duy trì các hình thức bóc lột với nông dân và các tầng lớp lao động khác, đàn áp tư tưởng, tuyên truyền hệ tư tưởng phong kiến, nô dịch các tầng lớp lao động bằng hệ thống tổ chức tôn giáo. Nhà nước phong kiến có thực hiện những hoạt động kinh tế nhưng với mức độ hạn chế. Về đối ngoại, nhà nước phong kiến tiến hành chiến 2

tranh xâm lược mở rộng đất đai – lãnh thổ, cướp bóc của cải và phòng thủ chống bành chướng, xâm lược. Bộ máy nhà nước phong kiến mang nặng tính quân sự, tập trung quan liêu gắn liền với chế độ đẳng cấp phong kiến. Các cơ quan mang nặng tính cưỡng chế như: quân đội, nhà tù, toà án. Cấu trúc bộ máy nhà nước phong kiến bao gồm: Vua, Bộ máy giúp việc nhà vua ở trung ương [ triều đình] và hệ thống quan lại giúp nhà vua ở địa phương. Hình thức chính thể phổ biến nhất của nhà nước phong kiến là chính thể quân chủ với những biến dạng khác nhau: chính thể quân chủ trung ương tập quyền, chính thể quân chủ phân quyền cát cứ, chính thể quân chủ đại diện đẳng cấp, chính thể quân chủ chuyên chế cực đoan. * Kiểu nhà nước tư sản Nhà nước tư sản ra đời do hai nguyên nhân chính về kinh tế và xã hội. Quan hệ sản xuất phong kiến chỉ có ý nghĩa tiến bộ trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến còn sang giai đoạn cuối thì nó

trở thành lực cản sự phát triển của lực lượng sản xuất, vì nhu cầu giải phóng sức lao động đã trở nên cấp bách, thế nhưng quan hệ sản xuất phong kiến không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất phong kiến với tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết. Từ mâu thuẫn về kinh tế dẫn tới mâu thuẫn gay gắt về xã hội giữa địa chủ và nông dân cũng cần được giải quyết, do chế độ bằng phát canh thu tô của địa chủ. Ngay trong lòng xã hội phong kiến ở giai đoạn cuối đã hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản muốn tiến hành cách mạng tư sản để xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, thiết lập kiểu quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Con đường cơ bản và phổ biến nhất để giành quyền lực chính trị là cách mạng xã hội, thay thế hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, thiết lập chính quyền của giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước tư sản ở từng nước còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau về lịch sử, xã hội do vậy có những đặc điểm riêng. Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước bóc lột cuối cùng trong lịch sử, là công cụ duy trì nền thống trị của giai cấp tư sản đối với tầng lớp nhân dân lao động Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Đối tượng sở hữu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chủ yếu là công xưởng, hầm mỏ, nhà máy, đồn điền với phương thức bóc lột giá trị thặng dư. Cơ cấu giai cấp trong xã hội tư sản gồm hai giai cấp chính là tư sản và vô sản. Nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội giai cấp tư sản giữ vai trò thống trị xã hội. Về phương diện pháp lí giai cấp vô sản được tự do nhưng do không có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động và trở thành người làm thuê cho giai cấp tư sản chịu sự bóc lột của giai cấp tư sản. Ngoài ra trong xã hội còn có giai cấp nông dân, tầng lớp tiểu tư sản và tri thức... Tôn giáo trong xã hội còn có vai trò quan trọng nhưng không còn là quốc giáo như trong xã hội phong kiến, nhà thờ tách ra khỏi nhà nước, tín ngưỡng là công việc của cá nhân. Nhà nước tư sản đặc biệt chú trọng truyền bá hệ tư tưởng tư sản, đảm bảo vai 3

trò thống trị của hệ tư tưởng này trong xã hội, ngăn cản sự phát triển của các tư tưởng tiến bộ và cách mạng.

Bản chất của nhà nước tư sản được thể hiện qua các chức năng của nhà nước tư sản: về đối nội nhà nước tư sản bảo vệ củng cố quyền sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động xã hội; bảo vệ củng cố tăng cường nhà nước tư sản, đàn áp nhân dân lao động về tư tưởng, quản lí kinh tế tư bản chủ nghĩa, tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách khác... Về đối ngoại tiến hành các hoạt động bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài, gây chiến tranh xâm lược để mở rộng thuộc địa giành giật thị trường và phân chia lại thế giới, gây ảnh hưởng của mình đối với các quốc gia khác và đặc biệt là chống lại sự ảnh hưởng từ phe các nước xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nhằm tạo ra cơ chế đối trọng kiềm chế nhau, kiểm soát nhau. Về cơ cấu có nghị viện, người đứng đầu nhà nước, chính phủ, hệ thống các toà án và chính quyền địa phương. Hình thức chính thể có hai loại chính thể quân chủ lập hiến [Anh, Nhật, Bỉ, Hà Lan... và chính thể cộng hoà dân chủ tư sản với các hình thức chính thể cộng hoà tổng thống [ Mỹ, Brazin, Côlômbia...], Cộng hoà đại nghị [Ý, Áo, Phần Lan, Canada, Ấn Độ...], Cộng hoà hỗn hợp [ Pháp]

  1. Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người đến thời điểm hiện nay. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính tất yếu khách quan phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa là những tiền đề kinh tế, xã hội và chính trị xuất hiện trong lòng xã hội tư bản. Về mặt kinh tế: vào cuối thế kỷ 19, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ tính trì trệ, kìm hãm sự phát triển sản xuất xã hội, không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức xã hội hóa cao, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất ngày càng gay gắt đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, đó chính là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đây là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Về mặt xã hội: Do mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và những người lao động khác ngày càng gay gắt. Giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Là đại biểu cho phương thức sản xuất mới giai cấp vô sản ý thức được vai trò và sứ mạng lịch sử của mình

lãnh đạo quần chúng lao động tiến hành cách mạng xã hội lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giải phóng mình và các tầng lớp nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột thiết lập nhà nước kiểu mớinhà nước xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư tưởng: Các lãnh tụ giai cấp vô sản đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 4

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với kiểu nhà nước bóc lột. Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo nhà nước và xã hội quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ duy trì sự thống trị của đa số với thiểu số là giai cấp bóc lột, thực hiện dân chủ với đa số là nhân dân lao động, chuyên chính với thiểu số bóc lột, chống đối. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy hành chính, cơ quan cưỡng chế đồng thời là một tổ chức quản lý kinh tế- xã hội, là công cụ xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do và nhân đạo. 1.1.2.3. Hình thức nhà nước Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

  1. Hình thức chính thể. Đây là cách tổ chức và trình tự lập ra các cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan đó. Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. - Chính thể quân chủ: là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế [Vua, Quốc vương, Hoàng đế]. Chính thể quân chủ được chia thành: Chính thể quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế. Trong các nước quân chủ tuyệt đối, người đứng đầu nhà nước [ Vua, Hoàng đế ] có quyền lực vô hạn, còn trong các nhà nước quân chủ hạn chế người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao và bên cạnh đó còn có một cơ quan quyền lực khác nữa, như Nghị viện trong các nhà

nước tư sản có chính thể quân chủ [Nghị viện ở Anh, Nhật bản, Hà lan...] - Chính thể cộng hoà: là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định [ như Đại hội nhân dân ở nhà nước Aten cổ đại, Nghị viện ở nhà nước cộng hoà tư sản, Quốc hội nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa]. Chính thể cộng hoà có hai hình thức chính là cộng hoà dân chủ và cộng hoà quý tộc. Trong các nước cộng hoà dân chủ quyền tham gia bầu cử để bầu ra cơ quan đại diện quyền lực của nhà nước quy định cho mọi công dân [trên thực tế chỉ trong nhà nước cộng hoà dân chủ xã hội chủ nghĩa thì quyền bầu cử của công dân mới được thực hiện đầy đủ, còn trong nhà nước bóc lột quy định này chỉ mang tính chất hình thức]. Trong các nước cộng hoà quý tộc quyền đó chỉ quy định đối với tầng lớp quý tộc do pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện [Ví dụ: Nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô Spac thế kỉ VI – IV trước công nguyên, Nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô La Mã cổ đại thế kỉ VI – I trước công nguyên, hay chế độ cộng hoà quý tộc một số thành phố ở Châu Âu dưới chế độ phong kiến như Venexơ, Phơlorenxơ [Italia], Nôpgôrớt, Pơ - scốp [Nga].

5

Chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà có những đặc điểm khác nhau ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất giai cấp, nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước tập quán chính trị, mức độ đấu tranh giai cấp. Vì vậy khi nghiên cứu hình thức chính thể của một nước nhất định cần phải gắn nó với những điều kiện lịch sử cụ thể. Hầu hết các nước theo chính thể cộng hoà hiện nay đều là dưới hình thức cộng hoà dân chủ với những biến dạng sau: Cộng hoà đại nghị, cộng hoà tổng thống, cộng hoà hỗn hợp. Tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước cộng hoà dân chủ được đặc trưng bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân lao động vào việc thành lập cơ quan đại diện của mình, cử tri trực tiếp bẩu ra các cơ quan quyền lực cao nhất, cử tri cùng toàn thể nhân dân giám sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan dân cử, nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội...

  1. Hình thức cấu trúc nhà nước Đây là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập các mối quan hệ

qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương với địa phương. Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là: Hình thức nhà nước đơn nhất và hình thức nhà nước liên bang. - Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lí thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn vị hành chính bao gồm Tỉnh[ Thành Phố], Huyện [quận], xã [phường]. Và có một hệ thống pháp luật thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia. Công dân mang một quốc tịch [Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Campuchia, BaLan, Hungari, Pháp, Nhật...] - Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nhà nước thành viên hợp lại. Nhà nước liên bang có chủ quyền chung, nhưng mỗi nhà nước thành viên có chủ quyền riêng; có hai hệ thống các cơ quan nhà nước - một của nhà nước liên bang, một của nhà nước thành viên; có hai hệ thống pháp luật - một của nhà nước liên bang và một của mỗi nhà nước thành viên; công dân mang hai quốc tịch [ Mỹ, Mêhicô, Ấn độ, Brazin, Malaixia, Liên xô trước đây...] - Còn một loại hình thức nhà nước khác nữa là nhà nước liên minh. Nhà nước liên minh chỉ là sự liên kết tạm thời của một vài nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhà nước liên minh tự giải tán hoặc có thể chuyển thành nhà nước liên bang [ ví dụ từ năm 1776 đến 1787 Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là nhà nước liên minh, sau đó phát triển thành nhà nước liên bang], hay các liên minh về kinh tế hiện nay.

  1. Chế độ chính trị Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp và thủ đoạn mà cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước Từ khi có nhà nước cho đến nay, giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều phương pháp cai trị nhưng nhìn chung là có hai phương pháp chính là dân chủ và phản dân chủ. Tương ứng với hai phương pháp ấy là hai chế độ nhà nước: chế độ dân chủ [chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ quý tộc phong kiến, chế độ tư sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa] và chế 6

độ phản dân chủ [ chế độ độc tài chuyên chế chủ nô, chế độ độc tài chuyên chế phong kiến, chế độ độc tài phát xít tư sản].

7

ST T

Kiểu NN PT SS

1

Cách thức thành lập

2

Bản chất

2

Số lượng, cơ cấu BMNN

3

Nguyên tắc tổ chức hoạt động

Chủ Nô

PK

TS

- Tự xưng, thế lập, tập âm, khoa cử, tư tưởng, - Tự xưng, do ý chí - Từ bầu cử, từ xã hội chế độ…. chủ quan -> dân chủ - Bổ nhiệm -> Phụ thuộc người cầm quyền - củng cố quyền sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm - là công cụ bạo - là công cụ để thực hiện lao động xã hội. lực để thực hiện chuyên chính của giai - hoạt động bảo vệ đất nền chuyên chính cấp PK đối với giai cấp nước khỏi sự xâm của giai cấp chủ nô nông dân và các tầng

lược, gây chiến tranh đối với nô lệ. lớp lao động khác. xâm lược - Chống lại sự ảnh hưởng từ phe các nước xã hội chủ nghĩa. - Ít cơ quan - BM hành chính quan liêu - Cơ quan NN đã bắt - Cơ cấu BMNN đa - Cơ cấu chưa XĐ đầu định hình dạng, phức tạp, nhiều - Giai đoạn đầu - Có cơ cấu XĐ: Vua, CQ chuyên môn: nghị còn đơn giản, chủ Bộ máy giúp việc nhà viện, người đứng đầu nô là người lãnh vua ở trung ương [ triều nhà nước, chính phủ, đạo và là nhà chức đình] và hệ thống quan hệ thống các toà án và trách. Về sau bộ lại giúp nhà vua ở địa chính quyền địa máy phát triển hơn phương phương. trong đó cảnh sát, quân đội, toà án - Hình thành 1 hệ thống nguyên tắc tổ chức hoạt động của - Tuỳ tiện BMNN xuất phát từ cơ - Thực hiện nền -Ban đầu hình thành 1 sở khoa học và thực

chuyên chính của số nguyên tắc nhất định tiễn để tạo ra 1 bộ máy giai cấp chủ nô, nhưng không có cơ sở có tính chất thống duy trì sự thống trị khoa học và phụ thuộc nhất, đồng bộ và bảo vệ lợi ích ý chí chủ quan của nhà + nguyên tắc phân của chủ nô, đàn áp cầm quyền quyền nô lệ + nguyên tắc đa đảng, đa nguyên + nguyên tắc dân chủ + nguyên tắc pháp chế

8

Chủ Đề