Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

ĐẢNG LÃNH ĐẠO

Yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng

Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong hơn 9 thập kỷ qua, kể từ ngày thành lập Đảng, đã chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam.

Một Ðảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công

Về quan điểm, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Về hình thức, Đảng chủ trương động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc.

Về phương pháp cách mạng, Ðảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Trên quan điểm đó, Ðảng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.

Một yếu tố khác cũng góp phần rất quan trọng trong thành công của Cách mạng Tháng Tám là nghệ thuật phân tích, dự báo thời cơ, chuẩn bị lực lượng. Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và thế giới, Đảng ta đã dự báo chính xác thời cơ khởi nghĩa.

“Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh.”

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc” tháng 10/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh.”

Sau đó, Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân [ngày 22/12/1944], tiếp đến là lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền [các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng], thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc… để chuẩn bị, sẵn sàng khởi nghĩa.

Ngày 16/8/1945, Quốc dân Ðại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn quốc. Thực hiện Nghị quyết của Ðảng và Quốc dân Ðại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28/8/1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam] – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.” [Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.25]

“Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn”

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Nhờ đó, trong 30 năm liên tục, từ 1945-1975, Đảng tổ chức, lãnh đạo hai cuộc kháng chiến trường kỳ giành những thắng lợi to lớn, viết tiếp “những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc,” làm nên những “sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc.”

Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.

“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.”

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.”

Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến-Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, đánh dấu thời khắc của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.” [Ảnh: Tư liệu TTXVN]

Với đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế-xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc trường chinh để giành độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn bó với Nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước.

Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam; tạo những cơ sở vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này.

Có thể thấy, “trong cuộc trường chinh để giành độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn bó với Nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước.” [Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV]

Đại hội Đảng lần thứ VI mở đầu công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy sức mạnh, tiềm năng để đưa đất nước tiến lên. [Ảnh: TTXVN]

Đảng lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới

Sau khi đất nước được thống nhất, trong muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa khôi phục kinh tế, vừa tiến hành hai cuộc chiến đấu chống xâm lược ở hai đầu biên giới, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước vừa đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, vừa tìm tòi, tháo gỡ khó khăn, khắc phục trì trệ, khủng hoảng kinh tế-xã hội, từng bước hoạch định đường lối đổi mới.

Năm 1986, Đảng đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Từ đó, đất nước không những vượt qua khủng hoảng kinh tế, mà còn trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sức mạnh đất nước không ngừng được tăng cường toàn diện, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực ngày một nâng cao.

“Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người; đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế… Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.” [Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng 3/2/1930-2020]

“Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.”

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng

Thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của nhân dân.

“Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,” như lời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng [3/2/1930-2020]./.

Áp phích chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026. [Ảnh: Vietnam+]

Share this:

Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam

15:06 29/01/2015
Thành quả vĩ đại của dân tộc, của đất nước ta trong hơn tám thập kỷ qua gắn liền với vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam tồn tại và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống, quyền tự do và làm chủ của nhân dân - đó là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh...

1. Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tiếp nối truyền thống lịch sử hào hùng của cha ông, suốt 85 năm qua kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn lại những chặng đường dài thăng trầm của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết, rút ra một chân lý: Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều yếu tố tạo thành, song nhân tố chủ yếu, quan trọng và quyết định nhất chính là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là chân lý mang tầm thời đại, là sự khẳng định cả về phương diện lịch sử và lý luận.

Trong thời kỳ đầu của cách mạng, chỉ với 15 tuổi đời và hơn 5000 Đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm nên kỳ tích của cách mạng Tháng Tám; vượt qua muôn vàn khó khăn thách thức, bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ năm 1954 chúng ta đã viết trọn vẹn bản anh hùng ca “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Tiếp đến là cuộc trường chinh chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, 9 năm chiến đấu giúp bạn Campuchia, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 giành độc lập, thống nhất đất nước và cứu cả một dân tộc thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Việt Nam trở thành biểu tượng của lương tri thời đại, là ngọn cờ tiên phong của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong đống tro tàn đổ nát của chiến tranh, nhân dân ta chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui chiến thắng, đất nước thống nhất, Nam Bắc sum họp một nhà lại phải bước vào một cuộc chiến tranh mới.

Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, cùng với chính sách bao vây, cấm vận tàn bạo và thâm độc của kẻ thù là hai gọng kìm nhằm tiêu diệt cách mạng nước ta. Khó khăn chồng chất khó khăn, vận mệnh của Tổ quốc ở thời khắc ấy như “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng với bản lĩnh và trí tuệ của một Đảng Mác xít – Trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc, Đảng ta một lần nữa đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách thức.

Bằng đường lối sáng tạo, kết hợp tốt sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy cao nhất mọi nguồn lực, trí tuệ và vật chất của khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức tốt nhiệm vụ cải tạo và phát triển nền kinh tế kết hợp với củng cố tăng cường sức mạnh quốc phòng toàn dân, đánh thắng hai cuộc chiến tranh biên giới, đưa đất nước ta ra khỏi suy thoái kinh tế.

Nhờ đó, nước ta đã vượt qua giai đoạn sóng gió, khủng hoảng, giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, từng bước phát triển kinh tế, ổn định xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác quốc tế, tạo tiền đề gợi mở để Đảng ta nghiên cứu tìm hướng đi mới cho công cuộc xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI [1986] là một bước ngoặt lịch sử trong việc đổi mới tư duy và đường lối phát triển đất nước của Đảng. Với sự thay đổi nhận thức về cơ chế, phương thức vận hành nền kinh tế và nhận thức về vị thế của nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới, từng bước “mở cửa”, hội nhập quốc tế.

Bác Hồ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3, năm 1960. ảnh tư liệu.

Trong quá trình chuyển đổi cơ chế nền kinh tế, chúng ta đã phải đối mặt với những thách thức vô cùng to lớn: CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện "diễn biến hoà bình", tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, tấn công phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, nhằm gây mất ổn định chính trị, lật đổ chế độ XHCN ở nước ta.

Trong bối cảnh đó, Đảng đã kịp thời phân tích, nhận định, đánh giá đúng tình hình, nắm vững những yếu tố tác động đến an ninh, quốc phòng, nhận thức rõ đối tượng, đối tác, thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc với phương châm thêm bạn, bớt thù, tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân, đi đôi với phân hoá cao độ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu.

Đảng đã khẳng định xây dựng đất nước phải gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ; chiến thắng giặc ngoài gắn chặt với đánh bại thù trong. Đảng luôn nêu cao mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giữ vững những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.

Từ bài học kinh nghiệm về sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, Đảng đã tăng cường củng cố vững chắc nền tảng an ninh, quốc phòng, đảm bảo cho sự phát triển ổn định, bền vững của chế độ; đồng thời nhận thức rõ sự bền vững của chế độ không chỉ phụ thuộc vào yếu tố an ninh, quân sự mà còn có các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội; chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới, phát triển là nền tảng vững chắc của an ninh, quốc phòng; an ninh, quốc phòng vững chắc là điều kiện ổn định, phát triển đất nước về mọi mặt.

Với tầm tư duy sắc bén đó, Đảng đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi thách thức, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, duy trì được sự phát triển ổn định vững chắc, phá vỡ thế bao vây cô lập của các thế lực thù địch.

2.Có được thành quả cách mạng to lớn đó, trước hết là do Đảng ta luôn biết kế thừa, vận dụng sáng tạo, phát triển các luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giành chính quyền và giữ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng. V.I Lênin đã từng chỉ rõ: một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết bảo vệ; và nguyên tắc cơ bản nhất là Đảng Cộng sản phải lãnh đạo chặt chẽ quân đội, công nông và sự nghiệp quốc phòng, an ninh trong mọi hoàn cảnh.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng và nguyên lý trên, Đảng đã lãnh đạo xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng, tập trung chăm lo xây dựng lực lượng Công an, Quân đội ngày càng lớn mạnh; nhất quán và kiên trì quan điểm tăng cường quốc phòng, giữ vững ANQG, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thổng chính trị mà nòng cốt là lực lượng vũ trang. Mỗi khi tình hình thế giới, khu vực có những biến động phức tạp, Đảng ta đều kịp thời có các nghị quyết, chỉ thị, chiến lược quan trọng để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và định hướng phát triển kinh tế - xã hội.

Trong quá trình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, Đảng đã đề ra và luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc dù có lúc có nơi, Đảng cũng đã vấp phải những sai lầm, khuyết điểm nhưng với bản lĩnh của mình, Đảng đã dám nhìn thẳng vào sự thật để sửa chữa khắc phục, luôn nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tự đổi mới để phát triển.

Qua khó khăn thử thách, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh chính trị kiên cường, tư duy lãnh đạo đúng đắn, linh hoạt sáng tạo, phương châm chỉ đạo kiên quyết, chiến lược kiên định, sách lược mềm dẻo, khôn khéo, nghệ thuật lãnh đạo chỉ đạo sắc sảo, sáng tạo; huy động được sức mạnh tổng hợp của dân tộc, của thời đại, của cả hệ thống chính trị vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo đó của Đảng chính là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thời gian tới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta có nhiều thuận lợi từ kết quả đạt được của 30 năm đổi mới, nhưng vẫn đang đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ, tác động trực tiếp tới sự ổn định chính trị, chủ quyền lãnh thổ, an ninh, trật tự và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặt ra những yêu cầu rất lớn đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng phải giữ vững vai trò lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, đồng thời đảm bảo tính đúng đắn, sáng tạo, sáng suốt trong mọi chủ trương, đường lối, quyết định lãnh đạo, chỉ đạo. Muốn vậy, một mặt Đảng phải tiếp tụcnâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh cầm quyền của mình, mặt khác cần phải quyết liệt đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.

3.Để hoàn thành sứ mệnh trên, theo chúng tôi cần tập trung quyết liệt một số nhiệm vụ sau:

1. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tăng cường giáo dục toàn Đảng giữ vững bản chất cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào lãnh đạo, giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước trong từng giai đoạn.

Kiên định về mục tiêu và nguyên tắc chiến lược, linh hoạt mềm dẻo về sách lược. Đảng cần tiếp tục đổi mới, phát triển tư duy nghệ thuật lãnh đạo Nhà nước và xã hội phù hợp với điều kiện của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và ứng phó với các thách thức, nguy cơ, bảo đảm vừa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.

Quán triệt quan điểm kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, giải quyết tốt các vấn đề xã hội; lấy ổn định chính trị, ổn định xã hội để phát triển kinh tế và lấy kinh tế làm nền tảng để đảm bảo an ninh, quốc phòng. Phát huy mạnh mẽ nội lực là nhân tố quyết định, tranh thủ tối đa mọi thuận lợi từ bên ngoài.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới [Ảnh: Cây cầu hiện đại Nhật Tân vừa được khánh thành].

Đặc biệt chú trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

Xác định đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng; tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc. Nâng cao chất lượng dự báo, nắm chắc tình hình; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố có thể dẫn đến đột biến, bất lợi; luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động bất ngờ.

2. Không ngừng củng cố, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh; kết hợp chặt chẽ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ, kiên quyết đập tan mọi mưu đồ của các thế lực thù địch đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,

Mục tiêu của các thế lực thù địch là bằng mọi thủ đoạn tìm cách phá hoại, làm suy yếu, từng bước làm cho Đảng ta tự biến chất, tự chuyển hóa, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam, thiết lập ở nước ta chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập theo mô hình các nước phương Tây. Do đó, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng ngang tầm đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định sự nghiệp cách mạng, xét về cả trước mắt và lâu dài.

Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Chú trọng xây dựng cơ quan tham mưu, giúp việc và đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác Đảng thật sự theo hướng chuyên môn hóa với bản lĩnh chính trị và nghiệp vụ cao.

Nghiên cứu, đề xuất kiện toàn về cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, đội ngũ lãnh đạo và tăng cường số lượng cán bộ chuyên trách theo Hướng dẫn số 14 của Ban Tổ chức Trung ương. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đảng. Tăng chỉ tiêu đào tạo chuyên ngành Xây dựng Đảng cho các trường có đủ tiêu chuẩn điều kiện, để bổ sung cán bộ làm công tác đảng cho các cơ quan, ban Đảng và cấp ủy các cấp.

Xây dựng mô hình hoạt động phối hợp hiệu quả giữa các bộ phận cùng làm nhiệm vụ công tác đảng ở các bộ, ngành, địa phương, tránh tình trạng chia cắt, khép kín. Có chế độ, chính sách đặc thù đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đảng để thu hút và tạo sự yên tâm, gắn bó của các bộ với sự nghiệp xây dựng Đảng.

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, nhất là ở các vùng chiến lược, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 [Khóa XI] “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, ngăn chặn xu hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, để củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.

Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, thanh tra, kiểm tra, điều tra truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội, lấy ý kiến nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp.

Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, cốt lõi là công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở, trong đó cơ bản nhất là phải bảo vệ vững chắc cơ sở tư tưởng - chính trị, bảo vệ chủ trương, đường lối, quan điểm, nguyên tắc hoạt động của Đảng, bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

Lực lượng vũ trang luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, nhân dân.

Các cấp ủy Đảng cần có các biện pháp tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng để nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của từng cơ quan, tổ chức Đảng và khả năng “tự đề kháng” của mỗi cán bộ, đảng viên nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, bọn phản động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ Đảng, làm tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước.

Tập trung đấu tranh chống các quan điểm tư tưởng sai trái, thù địch đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng. Chủ động vận dụng tư tưởng, lý luận cách mạng sắc bén để đánh bại tư tưởng, lý luận phản động; lấy chính nghĩa và sự thật đánh bại sự xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo Đảng, Nhà nước, lãnh tụ và cán bộ cao cấp của ta; bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, không để kẻ địch lợi dụng kích động. Phát hiện, bóc gỡ, vô hiệu hóa cơ sở nội gián trong nội bộ. Đấu tranh lên án và kiên quyết xử lý theo quy định của Đảng, của pháp luật đối với những người có thái độ, hành vi đi ngược lại lợi ích của Đảng, của đất nước, bất kể người đó là ai, ở cấp nào.

3. Giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; xây dựng lực lượng vũ trang [LLVT] cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao.

Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, quyết định đến phương hướng chính trị, bản chất giai cấp công nhân, nội dung phương thức hoạt động và mục tiêu chiến đấu của lực lượng vũ trang, đảm bảo cho Đảng luôn nắm chắc mọi nguồn lực, lãnh đạo chặt chẽ, xây dựng LLVT tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.

Xây dựng tổ chức bộ máy Quân đội nhân dân theo hướng cân đối giữa các quân, binh chủng, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, lực lượng thường trực và lực lượng động viên. Tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao...

Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, tiếp tục điều chỉnh, bố trí lực lượng, tăng cường cho Công an cấp huyện, đơn vị trực tiếp chiến đấu, ưu tiên hiện đại hóa cho lực lượng an ninh, tình báo và cảnh sát cơ động...

Tăng cường cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận, vạch trần bản chất phản động đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Hiện nay, đấu tranh trực diện với các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng - lý luận, chống âm mưu, hoạt động đòi “phi chính trị hoá” LLVT đã trở thành mặt trận nóng bỏng, gay go, quyết liệt.

Nhiệm vụ cơ bản của cuộc đấu tranh này là ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân; vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa” “phi đảng hóa” LLVT; góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.

Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ chính trị trong LLVT có đủ phẩm chất và năng lực, trình độ chuyên môn, nhạy bén về chính trị, sắc sảo về lý luận để phản bác, đấu tranh có hiệu quả với luận điệu sai trái phản động của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, sớm kết luận những vấn đề mới và bức xúc từ thực tiễn đấu tranh với âm mưu, hoạt động đòi “phi chính trị hóa” LLVT.

4. Các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang thực hiện tốt chức năng tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để tăng cường và đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, bên cạnh việc Đảng đề các đường lối, chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, sáng suốt còn đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước phải phát huy hiệu quả hoạt động, đưa đường lối, chủ trương đó đi và cuộc sống và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.

Năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được thể hiện trước hết ở khả năng vạch ra cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn để lãnh đạo đất nước, dẫn dắt cả dân tộc đi lên, tránh được nguy cơ sai lầm về đường lối. Đây là vấn đề cốt tử trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Các cơ quan tham mưu của Đảng phải giúp Đảng xây dựng và đề ra các chủ trương, đường lối phù hợp, đảm bảo trí tuệ, đúng đắn, chặt chẽ, không để kẻ địch và các loại đối tượng xấu lợi dụng, tác động làm sai lệch quan điểm của Đảng, ý chí của Nhà nước và nhân dân, làm chuyển hóa chế độ ta, vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng thông qua hoạt động xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật.

Quân đội nhân dân và Công an nhân dân phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Chú trọng đổi mới toàn diện các mặt công tác, nắm chắc tình hình, dự báo và phân tích đánh giá đúng đắn tình hình để làm tốt hơn nữa chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền địa phương lãnh đạo, quản lý, điều hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Hướng dẫn và giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về an ninh, quốc phòng ở cấp ủy, chính quyền các cấp.

Phát huy vai trò nòng cốt huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tham gia bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng.

Trực tiếp, chủ động tổ chức phòng ngừa và đấu tranh kiên quyết với các âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, bọn phản động, các loại tội phạm và giải quyết tốt các vấn đề an ninh xã hội, không để bị động, bất ngờ; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững chắc. Tham mưu đề xuất các chủ trương, giải pháp củng cố vững chắc trận địa tư tưởng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, chệch hướng xã hội chủ nghĩa; quản lý chặt chẽ công tác xuất bản, báo chí, phát thanh, truyền hình đảm bảo đúng đường lối của Đảng, giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

5. Củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Mọi cán bộ, đảng viên phải nêu cao trách nhiệm và tính tiền phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc khác trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh, khắc phục các biểu hiện suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, phai nhạt lý tưởng; ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên soi chiếu, tự kiểm điểm, liên hệ theo chức trách nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình, khắc phục sửa chữa nghiêm túc gắn với việc thực hiện nghiêm Quy định về những điều đảng viên không được làm.

Tổ chức Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên chỉ thực sự vững mạnh về chính trị khi hệ tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng trở thành nền tảng, định hướng chính trị nhất quán trong mọi hoạt động. Vì vậy, các cấp ủy đảng cần tăng cường và đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng để làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu và nhận thức đúng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của đất nước trong tình hình hiện nay.

Từ đó, xây dựng niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; để mỗi người đều có ý thức rèn luyện, xây dựng lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng, không dao động trước những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù; chủ động đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ cuộc sống hòa bình, ổn định của nhân dân.

4. Thành quả vĩ đại của dân tộc, của đất nước ta trong hơn tám thập kỷ qua gắn liền với vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam tồn tại và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống, quyền tự do và làm chủ của nhân dân - đó là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng như thực hiện một trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao phó, ủy thác, là nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Ngày nay trong công cuộc đổi mới, hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, không ngừng nâng cao bản chất cách mạng, bản lĩnh trí tuệ, sức chiến đấu, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng, chúng ta có đủ cơ sở và niềm tin vững chắc vào những thắng lợi tiếp theo.

# cách mạng Việt Nam Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giải phóng dân tộc GS.TS Trương Giang Long Học viện Chính trị CAND Tổng cục chính trị
Facebook Twitter Link gốc

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám

Đăng lúc: 15:35:45 31/05/2021 [GMT+7]3350 lượt xem
Chuyên viên: HoàngThị Hiền
Phòng Quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta. 90 năm qua, dù con đường đi lên có lúc quanh co, phức tạp, dù Đảng ta có lúc phạm khuyết điểm, sai lầm, nhưng nhờ bản lĩnh vững vàng;sự khiêm tốn, cầu thị; sự nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm; được nhân dân tin yêu, ủng hộ, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn lại những chặng đường dài thăng trầm của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết, rút ra một chân lý: Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều yếu tố tạo thành, song nhân tố chủ yếu, quan trọng và quyết định nhất chính là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Ngay trong những năm đầu khi mới ra đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, dù trong điều kiện khó khăn phải hoạt động bí mật và liên tục phải đối phó với sự đàn áp, khủng bố của kẻ thù, nhưngvới đường lối đúng đắn, được nhân dân tín nhiệm, Đảng đã tổ chức lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn và làm nên kỳ tích của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền, trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách tưởng chừng như không thể vượt qua. Nạnđói, lũ lụt xảy ra liên tiếp, kinh tế kiệt quệ, tài chính gần như trống rỗng.Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời, chưa có thời gian kiện toàn, củng cố nhưng thù trong, giặc ngoài uy hiếp từng ngày, từng giờ đối với chính quyền cách mạng non trẻ để hòng bóp chết chính quyền trong trứng nước.
Trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quyết sách đúng đắn, sáng suốt vừa vững vàng về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, đã lãnh đạo toàn dân vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề trong giải quyết nạn đói, nạn dốt và chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng. Trong đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng việc tạo lập cơ sở pháp lý, đảm bảo tính hợp pháp, hợp hiến cho chính quyền cách mạng như: bầu cử Quốc hội [6/1/1946], thành lập chính phủ chính thức; bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và thành lập ủy ban hành chính chính thức các cấp; xây dựng Hiến pháp [9/11/1946]. Chính vì vậy, chính quyền đã nhanh chóng được kiện toàn củng cố từ Trung ương đến địa phương trên phạm vi cả nước, quyền làm chủ của Nhân dân được thừa nhận trong hiến pháp, giáng đòn mạnh vào âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của các thế lực đế quốc và bọn phản động trong nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào chính quyền cách mạng.
Cùng với việc tạo lập cơ sở pháp lý cho chính quyền cách mạng, Đảng cũng đã đề ra và lãnh đạo Nhân dân thực hiện nhiều biện pháp nhằm huy động sức mạnh đoàn kết của toàn dân để giải quyết nạn đói, nạn dốt, từng bước chăm lo đời sống cho Nhân dân; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám.
Đặc biệt, trên mặt trận ngoại giao, với phương châm thêm bạn, bớt thù và nhân nhượng có nguyên tắc, Đảng đã thực hành sách lược khôn khéo để tránh cho cách mạng cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Vì vậy, trong thực hiện sách lược ngoại giao, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để quét sạch hai chục vạn quân Tưởngvà bọn phản động,tay sai của chúng ra khỏi đất nước, đưa cách mạng vượt qua thử thách hiểm nghèo bởi sự bao vây, chống phá của các thế lực đế quốc và bọn phản động trong nước, tạo thời gian cho toàn Đảng, toàn dân chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
Có thể khẳng định rằng, thành công nổi bật của hơn một năm xây dựng chính quyền non trẻ là với những chủ trương, biện pháp Đảng đề ra và lãnh đạo nhân dân thực hiện, cách mạng Việt Nam đã có được sức mạnh để có thể tự bảo vệ thành quả cách mạng của chính mình đúng như quan điểm của Lênin là cách mạng phải biết tự bảo vệ.Những biện pháp cực kỳ sáng suốt của Đảng trong chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám tiếp tụccho thấy sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta và đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời về sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của Đảng trong việc đề ra đường lối và lãnh đạo cách mạng; để lại cho Đảng nhiều những bài học kinh nghiệm cho các thời kỳ cách mạng về sau và ngay cả đến hiện nay.
Phát huy những thành công, những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng ở những năm đầu khi mới giành được chính quyền, trong các thời kỳ cách mạng sau, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta làm nên những thắng lợi to lớn kể cả trong đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, mặc dù quá trình đó cũng phải đối mặt với nhiều cam go, thử thách, có lúc tưởng chừng như không vượt qua được, nhất là sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Tuy nhiên sau 35 năm đổi mới, như đánh giá của Đại hội XIII, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tốhàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian tới, như dự báo của Đảng tại Đại hội XIII, công cuộc đổi mới của chúng ta có nhiều cơ hội lớn nhưng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn thử thách, đòi hỏi Đảng ta phải nâng tầm hơn nữa cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới.Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới trong thời gian tới, trong đó xây dựng Đảng vẫn được Đảng xác định là nhiệm vụ then chốt.
Về phương hướng của công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ, Đại hội XIII đã nêu rõ: “Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng. Phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng, hoàn thiện chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài; có cơ chế bảo vệ những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”[1].
Đồng thời, cùng với xác định phương hướng, tại Đại hội XIII, Đảng cũng đã đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ về công tác xây dựng Đảng để thực hiện, trong đó xác định 3 nhiệm vụ trọng tâmcần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện là: [1] Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương; [2] Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; [3] Tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Với những quan điểm chỉ đạo và những nhiệm vụ giải pháp mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đưa ra, tin tưởng rằng, với một Đảng cách mạng chân chính, có bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín lãnh đạo như Đảng ta, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, chúng ta sẽ có một sức mạnh to lớn, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không thế lực nào ngăn cản nổi dân tộc ta đi lên, lập nên những kỳ tích trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước./.

[1]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr 228-230.

Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng - yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Ngày đăng: 01/02/2021 03:53
Mặc định Cỡ chữ
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây và trong thời kỳ đổi mới hiện nay đã tạo nên vị thế, diện mạo mới để Việt Nam chủ động hội nhập, phát triển; trong đó sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là yếu tố đặc biệt quan trọng, đóng vai trò quyết định.

1. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta

Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã chấm dứt sự khủng khoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy thập kỷ, đồng thời chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đi theo con đường mới - con đường cách mạng vô sản. Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Mặc dù trong những năm đầu mới thành lập, Đảng ta phải hoạt động bí mật, nhưng với đường lối lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn đã được xác định trong Cương lĩnh của Hội nghị thành lập Đảng năm 1930 là chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, mặc dù có giai đoạn cách mạng thoái trào, nhưng Đảng ta đã giành được những thắng lợi quan trọng. Nói về thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[1].

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta ở trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” và phải đương đầu với kẻ thù có vũ khí hiện đại, trong khi lực lượng của ta nhỏ bé, ít kinh nghiệm, vũ khí thô sơ, lạc hậu. Song, Đảng ta vẫn kiên định chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, bồi dưỡng sức dân về tinh thần và vật chất. Đặc biệt là quan tâm, chăm lo dân chủ, chú trọng quyền công dân, thi hành chính sách giảm tô, giảm tức, phát động quần chúng cải cách ruộng đất, hoàn thành thực hiện người cày có ruộng.

Nhờ chính sách đúng đắn, kịp thời, linh hoạt của Đảng, Nhân dân ta đoàn kết một lòng, muôn người như một đã anh dũng chiến đấu để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ [ngày 20/7/1954], lập lại hòa bình ở Đông Dương. Sự kiện này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”[2].

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ [1954], đất nước tạm bị chia cắt, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến hai miền. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam vẫn bị đế quốc Mỹ chiếm đóng. Từ đây, cách mạng Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ phải tiến hành đồng thời, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, với mục tiêu chung là củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên nền tảng độc lập và dân chủ.

Cùng một lúc phải tiến hành hai chiến lược, hai nhiệm vụ cách mạng là điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam và thế giới. Để giải quyết nhiệm vụ to lớn và quan trọng đó, Đảng ta đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của đất nước và thế giới, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân. Đối với miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[3]. Đối với nhiệm vụ cách mạng miền Nam và cả nước, Người chỉ rõ: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước; ra sức củng cố và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới”[4].

Trong bài viết "Hồ Chí Minh - một nhà tư tưởng lớn”, Giáo sư Singo Shibata [Nhật Bản] khẳng định: “Một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về chủ nghĩa xã hội khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết Đảng Lao động Việt Nam là Đảng đầu tiên trong các Đảng mácxít trên thế giới vận dụng lý luận này”[5]. Thực tiễn cho thấy, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã tỏ rõ trí tuệ, bản lĩnh và sáng tạo, lãnh đạo Nhân dân giành những thắng lợi to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống đế quốc Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đưa tới thành công là nhờ Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao lại cho các thế hệ kế tiếp. Thời kỳ 1930-1945, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, còn chủ nghĩa xã hội là định hướng tiến lên của độc lập dân tộc, làm cho độc lập dân tộc mang tính cách mạng triệt để hơn bao giờ hết. Thời kỳ 1945-1954, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở việc tiến hành nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, trong đó chứa đựng những tiền đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ 1954-1975, ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện rõ ở việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Từ khi cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm thế giới; không ngừng làm giàu trí tuệ, kinh nghiệm, bản lĩnh, phương pháp, nâng cao phẩm chất đạo đức. Đường lối của Đảng thể hiện ở sự đổi mới toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu, thể hiện bản chất của một Đảng cách mạng chân chính, đạo đức, văn minh, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng luôn chú trọng phòng, chống những nguy cơ sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu, sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Mặt khác, Đảng ta tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ cấp chiến lược nói riêng đủ phẩm chất, năng lực và uy tín để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.

2. Đảng ta luôn thực hiện đúng ý nguyện của Nhân dân, đoàn kết, đồng tâm, hiệp lực để lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi

Trong tác phẩm Đường Kách mệnh [viết năm 1927], Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ cho mọi người hiểu vì sao cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hay hai người. Người chỉ rõ cách mạng Pháp năm 1789, cách mạng Nga năm 1917 đã dạy cho chúng ta rằng, dân chúng công nông là gốc của cách mạng; đàn bà, trẻ con cũng giúp cách mạng được nhiều. Những tư tưởng nêu trên của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ được truyền bá trong lớp thanh niên yêu nước đầu tiên của Việt Nam, mà còn thể hiện nhất quán, xuyên suốt từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay.

Mỗi thời kỳ cách mạng tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, Đảng ta thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất với những tên gọi khác nhau. Thời kỳ 1936-1939 gắn liền với Mặt trận Dân chủ chống phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương, với phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, uy tín của Đảng ta được mở rộng và ăn sâu vào quần chúng nhân dân.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gắn liền với Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Khẳng định tính chất lúc bấy giờ của cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta nêu khẩu hiệu chính là đoàn kết toàn dân, tạm thời gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ đề ra chính sách giảm tô, giảm tức và tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho dân cày. Với chương trình rõ ràng, thiết thực, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân, Mặt trận Việt Minh đã đoàn kết được mọi lực lượng yêu nước, trong đó có cả giai cấp địa chủ, chống đế quốc và tay sai. Thắng lợi đó đã chứng tỏ rằng: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần chúng. Nó cũng dạy chúng ta rằng: Phải hết sức tránh những bệnh chủ quan, hẹp hòi.v.v.”[6].

Chín năm kháng chiến trường kỳ gian khổ [1945-1954], Đảng ta đã phát huy sức mạnh, mở rộng và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất, từ Mặt trận Việt Minh đi tới Mặt trận Liên Việt - Việt Minh. Một trong những thành công lớn là Đảng đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, huy động lòng hăng hái, quyết tâm của toàn dân bằng phong trào thi đua yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu quyết tâm phải sửa đổi lối làm việc, chống thói quan liêu, mệnh lệnh, xa dân, coi thường quần chúng, đồng thời đề cao lối làm việc quần chúng, từ trong quần chúng ra và trở lại nơi quần chúng. Người khẳng định phải theo đúng đường lối nhân dân, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hành dân vận theo phương châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn, lực lượng đều ở nơi dân”; “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[7]; “Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”[8].

Thắng lợi vẻ vang sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc một lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khơi dậy, tập hợp. Lòng yêu nước và sự đoàn kết của Nhân dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng là cội nguồn sức mạnh đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, mà trước hết yêu cầu “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”[9].

“Lấy dân làm gốc” thể hiện tư tưởng của một đảng cầm quyền chân chính cách mạng, đạo đức, văn minh. Đảng cầm quyền thì phải chăm lo, củng cố sự liên hệ giữa Đảng với Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của Nhân dân; khơi dậy được lòng hăng hái, đồng tình ủng hộ của quần chúng. Mỗi đảng viên phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của Nhân dân; thường xuyên đấu tranh ngăn chặn thói quan liêu, mệnh lệnh, coi thường và xa rời quần chúng, đi ngược lại với lợi ích của quần chúng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là sau khi trở thành đảng cầm quyền và đặc biệt từ khi lãnh đạo đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước, lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cụ thể, năm 1989 tổng sản phẩm nội địa [GDP] của Việt Nam mới đạt 6,3 tỷ USD, nhưng đến năm 2020 quy mô nền kinh tế Việt Nam đã đạt 268,4 tỷ USD. Trong khu vực ASEAN, quy mô nền kinh tế Việt Nam hiện đã đứng thứ 4. Cùng với đó, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Như vậy so với trước Đổi mới, quy mô nền kinh tế đã khác, “bộ mặt”, diện mạo nền kinh tế, cũng như đời sống nhân dân đã khác… Đó chính là cơ đồ, tiềm lực, vị thế mà ngày nay Việt Nam đã gây dựng được[10].

Có được thành quả đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân mà cũng là bài học chủ yếu là nhờ Đảng đã có đường lối lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn, luôn lấy dân làm gốc, theo đúng đường lối nhân dân, làm đúng ý nguyện của nhân dân, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được thành tựu hôm nay”[11]. Đó cũng chính là một trong những bài học kinh nghiệm lớn được Đảng ta đúc rút trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011], đó là: “Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[12]./.

------------------

Ghi chú:

[1], [6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.25, tr.21.

[2], [3], [4] Sđd, tập 12, tr.410, tr.411, tr.411.

[5] Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb Lao động, H.1993, tr.62.

[7] Sđd, tập 5, tr.335.

[8] Sđd, tập 10, tr.63.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr.29.

[10] Nguồn://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2020-11-13/viet-nam-dang-co-co-do-vi-the-vung-chac-tren-duong-doi-moi-95160.aspx

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.73.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011], Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.9.

ThS Đặng Công Thành - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề