Tại sao cách mạng tư sản Pháp lại được đánh giá là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình
1. Nước Pháp trướccách mạng*Tình hình chính trị - xã hội Show
-Chính trị: duy trì chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền hành đều nằm trong tay vua. -Xã hội: gồm 3 đẳng cấp là Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. + Quý tộc nắm giữa những chức vụ tối cao. Tăng lữ và Quý tộc được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi. + Đẳng cấp thứ bagồm tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Trong đó, nông dân nghèo là giai cấp khổ nhất. Tư sản đứng đầu Đẳng cấp thứ ba, có thế lực kinh tế, song không có quyền lực chính trị. * Tình hình kinh tế -Nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, nạn mất mùa, đói kém thường xảy ra. -Công thương nghiệp đã phát triển: máy móc được sử dụng trong sản xuất, trung tâm dệt, luyện kim ra đời, các hải cảng lớn tập nập tàu buôn...nhưng lại bị chế độ phong kiến kìm hãm. 2.Cách mạng tư sản Pháp 1789a. Sự khủng hoảng của chế độ quân chủ chuyên chế * Biểu hiện: - Nhà nước nợ nhiều, không có khả năng trả nổi. Phải thu nhiều thứ thuế, công thương nghiệp đình đốn, công nhân và thợ thủ công thất nghiệp. - Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp mọi nơi. * Diễn biến - 05/05/1789, hội nghị ba đẳng cấp được tổ chức. Đẳng cấp thứ ba phản đối chủ trương tăng thuế của nhà vua. - 17/06/1789, đại biểu đẳng cấp thứ ba tự họp thành Hội đồng dân tộc và tuyên bố là Quốc hội lập hiến có quyền soạn thảo Hiến pháp, thông qua các đạo luật về tài chính. Vua và quân đội đã lựa chọn quân đội để uy hiếp. - Quần chúng nhân dân đã dùng vũ trang chống lại nhà vua, binh lính cũng nghiêng về phía nhân dân. - 14/07/1789, nhân dân tấn công chiếm pháo đài – nhà tù Ba-xtin. ⇒ Mở đầu cho thắng lợi kháng chiến là thắng lợi của cách mạng Pháp. b.Chế độ quân chủ lập hiến ( từ ngày 14/07/1789 – 10/08/1792) - Phái Lập hiến nắm quyền đã: + Hạn chế quyền của nhà vua. + Tháng 8/1789, thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. + Tháng 9/1791, thông qua Hiến pháp, xác lập chế độ quân chủ lập hiến. - Tháng 4/1792, liên minh Áo – Phổ cùng bọn phản động trong nước Pháp chống lại cách mạng. Tháng 8/1792, 80 vạn quân Phổ tràn vào nước Pháp. - 10/8/1792, nhân dân lật đổ sự thống trị của phái Lập hiến, xóa bỏ chế độ phong kiến. c.Bước đầu của nền Cộng hòa ( 21/9/1792 – 2/6/2793) Sau khi lật đổ phái Lập hiến, chính quyền chuyển sang tay phải Ghi-rông-đanh. - Ngày 21/9/1792, thành lập nền cộng hòa. 21/1/1793 xử tử vua Lu-I XVI - 20/9/1792, quân Pháp giành thắng lợi ở Van-ni sau đó chuyển sang phản công đuổi quân địch ra khỏi đất nước. - Mùa xuân năm 1793, liên minh phong kiến châu Âu và quân Anh lại tấn công nước Pháp, phản động trong nước nổi dậy. Nạn đầu cơ tích trữ hoành hành, lạm phát tăng cao, đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn. Trong khi đó, phái Gi-rông-đanh không lo chống ngoại xâm, nội phản và ổn định cuộc sống nhân dân mà chỉ lo củng cố quyền lực. ⇒2/6/1793, nhân dân Pa-ri, dưới sự lãnh đạo của Rô-be-xpi-e khởi nghĩa lật đổ phái Ghi-rông-đanh. d.Chuyên chính dân chủ cách mạng Gia-cô-banh ( 2/6/1793 – 27/7/1794) - Phái Gia-cô-banh đứng đầu là Rô-be-xpi-e cầm quyền đã thi hành một số các biện pháp: + Trả lại đất công bị quý tộc phong kiến chiếm đoạt cho nông dân. + Chia nhỏ đất đai để bán cho nông dân. + Trưng thu lúa mì, quy định mức giá, mức lương. - Kết quả: Nền kinh tế phát triển, xã hội dầnổn định. Chiến thắng được thù trong giặc ngoài. - 27/7/1794, tư sản phản cách mạng đảo chính bắt và xử tử Rô-be-xpi-e. Một số cuộc cách mạng tư sản tiêu biểuSửa đổi
Chú thích & tham khảoSửa đổi
Mục lục
Nguyên nhânSửa đổiBài chi tiết: Nguyên nhân của cuộc Cách mạng Pháp
Tình hình kinh tếSửa đổiCuối thế kỷ XVIII, Pháp vẫn là một nước nông nghiệp. Công cụ và phương thức canh tác thô sơ, lạc hậu, ruộng đất bỏ hoang nhiều, năng suất thu hoạch rất thấp. Dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông. Nông dân nhận ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và phải phục vụ, nộp địa tô cao cho các lãnh chúa. Đời sống nông dân ngày càng khốn quẫn bởi sự bóc lột đến cùng cực của lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nạn đói thường xuyên xảy ra. Công thương nghiệp phát triển, máy móc được sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt trong công nghiệp dệt, khai khoáng, luyện kim với những xí nghiệp tập trung hàng nghìn công nhân. Ngoại thương cũng có những bước tiến mới, các công ty thương mại Pháp buôn bán với nhiều nước ở châu Âu và phương Đông. Công thương nghiệp Pháp thời kì này đã phát triển, tập trung ở các vùng ven Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Nhưng chế độ phong kiến chuyên chế đã cản trở sự phát triển của công, thương nghiệp: thuế má nặng, không có đơn vị tiền tệ đo lường thống nhất, sức mua của dân nghèo rất hạn chế. Tình hình chính trị xã hộiSửa đổi1 ecu bạc của Pháp, mặt trước là chân dung vua Louis XVI, đúc năm 1784 Đến cuối thế kỉ XVIII, nước Pháp vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyên chế (đứng đầu là vua Louis XVI). Xã hội chia thành ba đẳng cấp: Tăng lữ, Quý tộc và Đẳng cấp thứ ba. Hai đẳng cấp đầu tuy chỉ chiếm số ít trong dân cư, nhưng được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, không phải nộp thuế, có nhiều bổng lộc và giữ những chức vụ cao trong chính quyền, quân đội và Giáo hội. Do vậy, họ muốn duy trì quyền lực của phong kiến và không muốn thay đổi chế độ chính trị. Đẳng cấp thứ ba gồm nhiều giai cấp và tầng lớp: tư sản, nông dân, bình dân thành thị. Họ phải chịu mọi thứ thuế và nghĩa vụ, song không có quyền lợi chính trị và bị lệ thuộc vào những đẳng cấp có đặc quyền. Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, do mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị giữa Đẳng cấp thứ ba với đẳng cấp Tăng lữ và Quý tộc, nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc, báo hiệu một cuộc cách mạng đang đến gần. Sau cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756–1763), nền quân chủ Pháp suy thoái nghiêm trọng, trong khi những liệt cường phía Đông là Nga, Phổ và Áo lại phát triển lớn mạnh, trong khi Anh đã vươn lên trở thành đối thủ khó ưa của Pháp.[4][5] Nhiều yếu tố dẫn tới cuộc cách mạng; về một số mặt chế độ cũ không còn chống đỡ nổi tính cứng nhắc của chính nó đối diện với một thế giới đang thay đổi; một số mặt khác, nó rơi vào những tham vọng của một tầng lớp trưởng giả đang nổi lên, cộng với sự lo lắng của những người nông dân, người làm công ăn lương, và các cá nhân ở mọi tầng lớp đang chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng của thời đại Khai sáng. Khi cách mạng diễn ra và khi quyền lực được trao từ tay triều đình cho các thể chế luật pháp, những xung đột quyền lợi của các nhóm liên minh ban đầu đó đã trở thành nguồn gốc của xung đột và đổ máu. Chắc chắn, các nguyên nhân của cách mạng phải bao gồm tất cả những điều sau:
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Hoạt động tiền cách mạng đã bắt đầu khi vua Louis XVI của Pháp (trị vì từ 1774–1792) đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính hoàng gia. Nhà vua Pháp, về mặt tài chính cũng là quốc gia Pháp, có những món nợ rất lớn. Trong thời vua Louis XV (trị vì từ 1715–1774) và Louis XVI nhiều bộ trưởng, gồm cả Nam tước Turgot (Bộ trưởng Tài chính 1774–1776) và Jacques Necker (Bộ trưởng Tài chính 1777–1781), đều không thành công trong việc đưa ra cải cách nhằm biến hệ thống thuế của Pháp trở nên đồng đều hơn. Các biện pháp đó luôn bị phản đối từ phía "hội đồng nhà vua" (tòa án), dân "quý tộc", vốn tự coi mình là những người bảo vệ quốc gia chống lại chế độ chuyên quyền, cũng như khỏi các bè phái của triều đình và cả các bộ trưởng mất chức. Charles Alexandre de Calonne, người đã trở thành Bộ trưởng Tài chính năm 1783, theo đuổi một chiến lược chi tiêu minh bạch, coi đó là phương tiện để thuyết phục những ông chủ nợ tiềm tàng về sự đáng tin cậy và ổn định của nền tài chính Pháp. Tuy nhiên, Calonne, từ lâu đã theo dõi tình hình tài chính của Pháp, đã quyết định rằng nó vẫn có thể cứu vãn được và đưa ra một loại thuế đất đai thống nhất coi đó là phương tiện để đưa tài chính Pháp vào khuôn khổ về dài hạn. Trước mắt, ông hy vọng rằng một sự biểu thị ủng hộ từ phía Hội đồng quý tộc được chọn lọc kỹ lưỡng sẽ lấy lại được lòng tin vào tài chính Pháp, cho phép vay mượn thêm cho tới khi thuế đất đai mang lại hiệu quả và bắt đầu trả nợ. Mặc dù Calonne đã thuyết phục nhà vua về sự cần thiết của những cải cách của ông, Hội đồng quý tộc đã từ chối tán thành các biện pháp của ông, đòi hỏi rằng chỉ một chỉ một cơ cấu đại diện thực sự; tốt nhất là États Généraux (Hội nghị các Đẳng cấp) của vương quốc, mới có thể thông qua luật thuế mới. Nhà vua, thấy rằng chính Calonne là một trở ngại đã cách chức ông và thay bằng Étienne Charles de Loménie de Brienne, vị Tổng giám mục Toulouse, người sau này là lãnh đạo phe đối lập trong Quốc hội. Brienne lúc ấy đã có được vị trí mở rộng để tiến hành cải cách, trao cho dân chúng nhiều quyền dân sự (gồm cả tự do tôn giáo với phái Tin lành), và hứa hẹn triệu tập hội nghị đại diện các đẳng cấp trong năm năm, nhưng trong lúc ấy ông cũng cố gắng thúc đẩy các kế hoạch của Calonne. Khi các biện pháp này được đưa ra trước "Hội đồng Nhà vua" tại Paris (một phần cũng phải nhờ đến sự không lịch thiệp của nhà vua), Brienne phản đối, gắn sức giải tán toàn bộ Hội đồng và thu thêm các loại thuế mà không cần quan tâm tới họ. Điều này đã dẫn tới một sự phản ứng rộng lớn từ nhiều nơi trong đất Pháp, gồm cả "Ngày của những viên ngói" nổi tiếng ở Grenoble. Thậm chí quan trọng hơn, sự hỗn loạn khắp đất nước đã làm các nhà cho vay ngắn hạn, mà ngân khố Pháp phải phụ thuộc vào và từng ngày một phải thuyết phục họ ngừng rút các khoản nợ, đưa lại một tình trạng gần như phá sản buộc Louis và Brienne phải đầu hàng. Ngày 8 tháng 8 năm 1788, nhà vua đồng ý triệu tập hội nghị bất thường États Généraux vào tháng 5 năm 1789 – lần đầu tiên kể từ 1614. Brienne từ chức vào ngày 25 tháng 8 năm 1788, Necker một lần nữa lại gánh vác trọng trách tài chính quốc gia. Ông đã sử dụng vị trí của mình để đề xuất các cải cách mới, nhưng chỉ để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ của các đại diện quốc gia. Hội nghị đại diện các Đẳng cấp năm 1789Sửa đổiBài chi tiết: Hội nghị các đẳng cấp năm 1789
Việc kêu gọi triệu tập Hội nghị các Đẳng cấp dẫn tới sự gia tăng lo ngại từ phía đối lập rằng chính phủ sẽ cố gắng triệu tập một hội nghị với thành phần có lợi cho họ. Nhằm tránh tình trạng này, "Hội đồng Nhà vua" của Paris, vốn đã trở về vai trò quyền lực tại thành phố trong thắng lợi, tuyên bố rằng Hội nghị phải được triệu tập theo những cách thức đã được tiến hành như ở lần Hội nghị trước. Mặc dầu có vẻ rằng các thành viên Hội đồng Paris không nhận thức đầy đủ về "những cách thức năm 1614" khi họ đưa ra quyết định này, nhưng nó đã gây nên một sự xáo động. Hội nghị năm 1614 bao gồm số lượng đại biểu ngang nhau từ mỗi đẳng cấp, và trật tự là, Đẳng cấp thứ nhất (tăng lữ), Đẳng cấp thứ hai (quý tộc), và Đẳng cấp thứ ba (bao gồm tầng lớp Đại tư sản, tư sản công thương, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân nghèo) và mỗi đẳng cấp (toàn thể tất cả các đại biểu thuộc đẳng cấp đó) được bầu một phiếu. Hầu như ngay lập tức "Ủy ban Ba mươi", một tổ chức những người Paris tự do, đa số là quý tộc, bắt đầu kích động chống lại nó, đòi phải tăng gấp đôi Đẳng cấp thứ ba và bầu theo đầu phiếu (như đã từng được thực hiện ở nhiều hội đồng địa phương). Hội đồng Nhà vua tại Paris nhanh chóng phản công lại, tuyên bố rằng chỉ các quy trình bầu cử; những người được ủy quyền được bầu cử bởi những "Quan án quản hạt" và "hội đồng nhà vua" tại các địa phương chứ không phải bởi các tỉnh; mới cần được quyết định bởi kiểu năm 1614. Necker, thay mặt cho chính phủ, cuối cùng đi đến kết luận là Đẳng cấp thứ ba cần phải được tăng lên gấp đôi, nhưng vấn đề bầu theo đầu phiếu vẫn phải để lại cho Hội nghị tự giải quyết. Nhưng những sự oán giận từ cuộc tranh cãi đó vẫn còn rất lớn, và những cuốn sách mỏng, như của Abbé Sieyès Đẳng cấp thứ ba là gì, tuyên truyền rằng các đẳng cấp được ưu tiên là những kẻ ăn bám và rằng chính các đại biểu của Đẳng cấp thứ ba mới là đại diện quốc gia, làm cho những sự oán giận đó vẫn tồn tại. Khi Hội nghị được triệu tập ở Versailles vào ngày 5 tháng 5 năm 1789, những bài phát biểu dài của Necker và Lamoignon, người giữ các con dấu, không hướng dẫn được gì nhiều cho các đại biểu, họ lại phải quay lại các cuộc họp nhóm để ủy nhiệm cho các thành viên của mình. Vấn đề bầu cử theo đầu phiếu hay theo đẳng cấp không được đặt ra, nhưng các đại biểu Đẳng cấp thứ ba lúc ấy yêu cầu lá phiếu của một đẳng cấp chỉ có giá trị khi đại diện cho toàn thể các đại biểu của đẳng cấp đó tại Hội nghị. Tuy nhiên, những cuộc thương lượng giữa các đại biểu tại Hội nghị của các đẳng cấp thứ nhất và thứ hai để hoàn thành việc này không mang lại kết quả, vì chỉ có một đa số không đáng kể tăng lữ và đa số lớn hơn các quý tộc tiếp tục ủng hộ việc bầu cử theo đẳng cấp. Lịch sử lớp 10Giáo án Lịch Sử lớp 10: CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP CUỐI THẾ KỈ XVIII ppsBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.04 KB, 10 trang ) CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP CUỐI THẾ KỈ XVIII 2. Dẫn dắt vào bài mới Cuối thế kỉ XVIII, giữa Pa-ri hoa lệ của nước Pháp - “kinh đô châu Âu”, đã bùng nổ một cuộc cách mạng “ lay trời lở đất”. Thành quả của cuộc cách mạng đó được Lênin nhấn mạnh rằng : “Nó xứng đáng là cuộc đại cách mạng vì đã làm biết bao việc cho giai cấp của nó tức là giai cấp tư sản, để đến trọn thế kỉ XIX, thế kỉ đem lại ánh sánh văn hoá, văn minh cho nhân loại đều diễn ra dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng vĩ đại này”. Vì sao cuộc cách mạng tư sản ở trung tâm châu Âu lại trở nên điển hình hơn bất cứ cuộc cách mạng tư sản nào của thời kì cận đại? , chúng ta sẽ nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề này trong bài học hôm nay.( Giáo viên ghi tiêu đề bài học) 3.Tổ chức các hạot động day và học trên lớp Hoạt động của thầy và trò Kiến thức cơ bản HS cần nắm vững Hoạt động 1: Cá nhân GV tổ chức để HS trả lời câu hỏi: Căn cứ vào đâu để nói rằng, cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu? HS có thể dựa vào sách giáo khoa để trả lời câu hỏi này. Đặc biệt, GV hướng dẫn HS phân tích đời sống của nông dân Pháp dưới ách áp bức bóc lột của phong kiến, Giáo hội (Địa tô từ 1/3 đến 1/2 hoa lợi, nhiều loại thuế, nghĩa vụ phong kiến, nhà thờ phi lí khác). Miêu tả bức tranh Tình cảnh nông dân Pháp trước mạng ( SGK) - GV miêu tả công xưởng luyện thép ở Pháp ( Nguồn: Encarta) I.Nước Pháp trước cách mạng 1. Tình hình kinh tế xã hội A/ Kinh tế - Cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là nước nông nghiệp + Công cụ, kĩ thuật canh tác lạc hậu, năng suất thấp. + Lãnh chúa, Giáo hội bóc lột nông dân nặng nề - Công thương nghiệp phát triển + Máy móc sử dụng ngày càng nhiều (dệt, khai mỏ, luyện kim) + Công nhân đông, sống tập trung + Buôn bán mở rộng với nhiều nước b/ Chính trị Hoạt động 2:Nhóm GV cho học sinh theo dõi sơ đồ cơ cấu xã hội nước Pháp , hướng dẫn HS thảo luận , vai trò, quyền lợi kinh tế, địa vị chính trị của các đẳng cấp, từ đó rút ra kết luận: Mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế, địa vị chính trị dẫn đến cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc. Giải quyết mâu thuẫn này như thế nào? Nước Pháp đang ở đêm trước của một cuộc cách mạng Hoạt động 1: Nhóm GV hướng dần HS thảo luận vấn đề: - Những tư tưởng tiến bộ ở nước Pháp trước cách mạng được dựa trên cơ sở nào? Sau đó GV giới thiệu trào lưu “Triết học ánh sáng” thông qua những quan điểm tiêu biều của Mông – te – xki- ơ, Vôn – te, Rút – xô. HS cần nhận thức rõ những tư tưởng đó không dừng ở việc phê phán chế độ phong kiến thối nát, giáo lí nhà thờ hủ lậu, mà quan trọng hơn là đặt cơ sở nền móng lí thuyết về việc xây dựng một chế độ xã hội mới. Nó thực sự là tư tưởng dọn đường cho cách mạng, là ngọn đuốc sáng cho nước pháp Pháp khi vẫn còn trong đêm tối. - Xã hội chia thành 3 đẳng cấp + Tăng lữ Nắm đặc quyền + Quý tộc kinh tế, chính trị, giáo hội. + Đẳng cấp thứ ba: Gồm TS, Nông dân, bình dân. Họ làm ra của cải, phải đóng mọi thứ thuế, không được hưởng quyền lợi chính trị. Mâu thuẫn xã hội gay gắt 2.Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - Những tư tưởng tiến bộ phê phán những quan điểm lỗi thời, giáo lí lạc hậu , mở đường cho xã hội phát triển - Triết học ánh sáng dọn đường cho cách mạng bùng nổ, định hướng cho một xã hội mới tương lai. Hoạt động 1: GV/ HS Giáo viên hướng dãn HS thảo luận vấn đề: - Nhà vua triệu tập hội nghị 3 đẳng cấp để làm gì ? - Nhà vua có đạt được mục đích của mình không? Vì sao vậy? Giáo viên tường thuật trận tấn công phá ngục Ba-xti ( Có thể sử dụng đoạn trích trong bài thơ 14-7 của Tố Hữu) - GV sử dụng bản đồ phong trào nhân dân Pháp (sgk), Bức trnh biếm hoạ Nông dân chặt vòi bạch tuộc ( Chính sách tô, thuế của Phong kiến, Giáo hội ăn bám), Nông dân đốt các lãnh địa phong kiến v.v - GV hướng dần HS tìm hiểu những tư tưởng tiến bộ của Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền ( Có thể liên hệ với Tuyên ngôn độc lập của Mĩ, Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam). - HS nhận xét mặt tích cực và hạn chế của những chính sách mà Quốc hội lập hiến ban hành. II Tiến trình của cách mạng 1. Cách mạng bùng nổ. Nền quân chủ lập hiến - 5-5-1789 Hội nghị ba đẳng cấp do nhà vua triệu tập bị đẳng cấp thứ ba phản đối. - 14-7-1789, quần chúng phá ngục Ba-xti, mở đầu cho cách mạng Pháp. - Quần chúng nhân dân nổi dậy khắp nơi( cả thành thị và nông thôn), chính quyền của tư sản tài chính được thiết lập( Quốc hội lập hiến) + Thông qua Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền. + Ban hành chính sách khuyến khích công thương nghiệp phát triển. + 9-1791 thông qua hiến pháp, xác lập nền chuyên chính tư sản ( quân chủ lập hiến) - Vua Pháp tìm cách - Trước hành động phản quốc của nhà vua, cách mạng Pháp cần phải làm gì? Những biện pháp mà Quốc hội lập hiến và nhân dân pháp tiến hành có bảo vệ được nước Pháp ? Giai đoạn sau của cách mạng nước Pháp sẽ giúp ta trả lời câu hỏi này. Hoạt động 1: GV/HS - GV tái hiện kiến thức cũ đặt ra tình huống mới: Với việc xử tử vua Sác-lơ I, thiết lập nền cộng hoà, cách mạng Anh đạt tới đỉnh cao. Cách mạng Pháp lúc này đã làm một việc tương tự, cách mạng Pháp đã đạt tới đỉnh cao chưa? - Hướng dẫn HS thảo luận, GV cần chốt lại vấn đề: Những quyết định trên của Quốc hội (do áp lực của quần chúng), chưa đáp ứng được những yêu cầu cấp bách mà cách mạng Pháp đòi hỏi. + Chống thù tronggiặc ngoài + Chống nạn đầu cơ tích trữ, phục vụ mặt trận, cải thiện đời sống nhân dân. chống phá cách mạng, khôi phục lại chế độ phong kiến. ( xúi giục phản động trong nước, liên kết với phong kiến bên ngoài) - 4-1792 Chiến tranh giữa Pháp với liên minh phong kiến áo – Phổ bùng nổ - 11-7-1792 Quốc hội tuyên bố Tổ quốc lâm nguy, quần chúng đã nhất loạt tự vũ trang bảo vệ đất nước. 2. Tư sản công thương cầm quyền. Nền cộng hoà được thành lập - 10-8-1792 quần chúng Pa-ri nổi dậy, lập chính quyền công xã cách mạng,( phái Gi-rông - đanh); bắt vua và hoàng hậu. - 21-9 Quốc hội tuyên bốlập nền Cộng hoà thứ nhất, xử tử nhà vua - Đầu năm 1793, nước Pháp đứng trước khó khăn mới + Trong nước: Bọn phản động nổi dậy; Đời sống nhân dân khó khăn. + Bên ngoài: Liên minh phong kiến châu Âu đe doạ cách mạng. Quần chúng tiếp tục tạo ra áp lực, chuyển giao chính quyền về tay phái Gia –cô-banh, đáp ứng yêu cầu của cách mạng - GV sử dụng ảnh chân dung giới thiệu Rô-be-xpi-e, nhấn mạnh những phẩm chất nổi bật như ý chí sắt đá, tinh thần đấu tranh không khoan nhượng trước kẻ thù vì lợi ích của nhân dân, một con người kiên định “ không thể đảo ngược được”. - GV hướng dẫn HS nhận thức về các chính sách cụ thể của chính quyền Gia – cô-banh lúc này đã thực sự phát huy tác dụng. Cần có sự so sánh để thấy đây là những chính sách tiến bộ hơn hẳn thời kì Ghi-rông-đanh nắm quyền, chẳng hạn: + Việc chia ruộng thành lô lớn, bán giá cao thời Ghi –rông -đanh khiến nông dân không thể có đất đai canh tác, giờ đây( thời Gia –cô-banh) sắc lệnh chia đều đất công, ruộng được chia thành lô nhỏ, trả dần trong 10năm. + Trước đây đạo luật cấm công nhân bãi công, hội họp, nay hiến pháp mới( 6-1793) ban bố quyền dân chủ rộng rãi, mọi sự bất bình đẳng giai cấp bị xoá bỏ. + Việc ban hành luật giá tối đa đã khắc phục tình trạng nạn đầu cơ tích trữ, huy động lương thực thực phẩm cho mặt - 31-5-1793 quần chúng Pa-ri nổi dậy, lật đổ phái Ghi-rông-đanh, giành chính quyền về tay phái Gia-cô-banh (2-6). 3.Nền chuyên chính Gia- cô-banh - đỉnh cao của cách mạng. - Trước những khó khăn , thử thách nghiêm trọng Chính quyền Gia –cô- banh đã đưa ra những biện pháp kịp thời, hiệu quả. + Giải quyết ruộng đất cho nông dân, tiền lương cho công nhân. + Thông qua hiến pháp mới , mở rộng tự do dân chủ. + Ban hành lệnh “ Tổng động viên” + Xoá nạn đầu cơ tích trữ trận và cải thiện từng bước đời sống nhân dân. - Tại sao giữa lúc cách mạng đang lên, phái Gia-cô- banh lại suy yếu ? GV hướng dẫn HS phân tích những đòi hỏi từ nhiều phía ( tư sản, công nhân, nông dân) đối với chính quyền Gia-cô-banh lúc này dẫu chính đáng cũng không thể có điều kiện thực hiện. Đất nước vừa kết thúc một cuộc chiến gian khổ, kéo dài với những khó khăn chồng chất, hậu quả chưa được khắc phục. Sự bất lực, lúng túng với những những quyết sách sai lầm của phái Gia-cô- banh ( đàn áp các lực lực lượng chống đối ), dẫn đến việc họ không còn chỗ dựa. Ngay cả một bộ phận quần chúng cách mạng trung thành với với Gia –cô- banh, đòi hỏi Rô-be-xpi-e phải hành động cương quyết trước hành động của kẻ thù thì ông lại lừng chừng không quyết đoán. Lực lượng tư sản cơ hội- kẻ mới giàu lên trong chiến tranh đã làm cuộc đảo chính bắt Rô-be-xpi-e và những cộng sự của ông lên đoạn đầu đài . Lòng nhiệt tình cách mạng của quần chúng Pa-ri lúc này đã nguội lạnh, để lực lượng phản động đẩy cách mạng vào giai đoạn thoái trào. Về sự thất bại của Gia-cô- banh, V.I.Lênin chỉ rõ: “ đưa ra những dự định đại quy mô mà lại không có - Phái Gia- cô-banh đã hoàn thành nhiệm vụ chống thù trong, giặc ngoài, đưa cách mạng đến đỉnh cao. - Trong lúc cách mạng đang lên, mâu thuẫn nội bộ đã làm cho phái Gia- cô-banh suy yếu. Cuộc đảo chính ngày 27-7- 1794 đã đưa chính quyền vào tay bọn phản động, cách mạng Pháp thoái trào. chỗ dựa cần thiết để thực hiện, không biết ngay cả phải dựa vào giai cấp nào để áp dụng biện pháp này hay biện pháp khác” - Giáo viên cần hướng dẫn để học sinh nhận thức được rằng, các cuộc đảo chính liên tiếp kể từ sau thất bại của nền chuyên chính Gia –cô-banh, là quá trình đi xuống, thể hiện sự tụt lùi của cách mạng Pháp ( Từ Cộng hoà tư sản qua các bước trunggian trở về quân chủ phong kiến). Có thể biểu diễn sự thoái trào của cách mạng Pháp qua sơ đồ sau: Gia-cô-banh ( Cộng hoà: 6 - 1793) Đốc chính( 27-7-1794) Độc tài( Đế chế1: 11-1799) Quân ch ủ . (11 – 1815) 3. Thời kì thoái trào - Sau đảo chính, Uỷ ban Đốc chính ra đời đã thủ tiêu mọi thành quả của cách mạng. + Hiến pháp mới được ban hành bảo vệ lợi ích TS mới. + Xoá bỏ luật giá tối đa + Thủ tiêu các quyền tự do dân chủ + Khủng bố những người cách mạng - Cuộc đảo chính ( 11- 1799) lật đổ chế độ Đốc chính, đưa Na-pô-lê-ông lên nắm quyền, xây dựng chế độ độc tài. - Sau nhiều năm chiến tranh, Đế chế I của Na- pô-lê-ông bị suy yếu, thất bại(1815). Chế độ quân chủ ở Pháp được phục hồi - GV hướng dẫn HS so sánh những III. ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Pháp cuối thế kỉ XVIII - Là cuộc cách mạng dân những thành quả mà cách mạng Pháp đạt được, đặc biệt nhấn mạnh những thành quả đó đều do sức mạnh của quần chúng cách mạng tạo tên. Chính vì lẽ đó cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng điển hình nhất, tiêu biểu nhất, nó hơn hẳn bất cứ một cuộc cách mạng tư sản nào nổ ra trước hoặc sau nó. Với ý nghĩa to lớn đó nó xứng đáng được coi là cuộc “ đại cách mạng”. chủ tư sản điển hình. + Lật đổ chế độ phong kiến cùng với những tàn dư của nó. + Giải quyết được vấn đề dân chủ ( ruộng đất cho nông dân, quyền lợi của công nhân) + Hình thành thị trường dân tộc thống nhất mở đường cho lực lượng TBCN ở Pháp phát triển. + Giai cấp tư sản lãnh đạo , nhưng quần chúng quyết định tiến trình phát triển của cách mạng. - Mở ra thời đại thắng lợi và củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản trên phạm vi thế giới. 4. Sơ kết bài học GV hướng dẫn HS nhận thức vấn đề chủ yếu sau : - Vì sao cách tư sản Pháp là cuộc cách mạng tiêu biểu, điển hình? - Nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của cuộc cách mạng tư sản đó? Tổng kết nội dung trên, giáo viên tiếp tục giúp học sinh củng cố khái niệm cách mạng tư sản. ( Có thể so sánh với cuộc chiến tranh giành độc lâp ở Bắc Mĩ, cách mạng tư sản Hà lan, cách mạng tư sản Anh để nhận thức thêm sự đa dạng về hình thức của cách mạng tư sản trong buổi đầu thời cận đai). 5. Dặn dò, bài tập về nhà -Học bài cũ, đọc trước bài mới. -Trả lời câu hỏi bài bập SGK |