Tại sao châu Âu phát triển hơn châu á

Vì sao châu Âu trở nên thịnh vượng?

Chỉ duy nhất châu Âu tăng trưởng nhảy vọt trong thời kỳ cận đại. Bằng cách nào họ làm được điều đó?

Các sử gia, nhà kinh tế học, khoa học chính trị, học giả thế giới… đã viết vô số sách để lý giải vì sao Kỷ Đại Thịnh vượng [the Great Enrichment] lại bùng nổ tại Tây Âu trong thế kỷ 18. Theo phân tích của Giáo sư Joel Mokyr, bước phát triển nhảy vọt của kinh tế châu Âu cận đại là sự hội thành của nhiều yếu tố "cần và đủ".

Một trong những lời giải thích lâu đời nhất và thuyết phục nhất chính là sự phân rẽ về mặt chính trị trong một thời gian dài của châu Âu. Trong suốt nhiều thế kỷ, không một nhà lãnh đạo nào có thể thống nhất châu Âu theo cách mà người Mông Cổ hay Đại Minh từng thống nhất Trung Quốc.

Cũng cần phải nhấn mạnh rằng phép màu kinh tế châu Âu hiện đại là hệ quả ngẫu nhiên, tình cờ của thể chế. Nó không hề được thiết kế hay lên kế hoạch từ trước. Nhưng nó vẫn xảy ra, và một khi đã bắt đầu, nó sẽ tạo ra một động lực phát triển kinh tế mà nhờ đó, tăng trưởng dựa trên tri thức vừa trở nên khả thi, vừa bền vững.

Tại sao lại như vậy? Nói ngắn gọn thì sự phân rẽ chính trị tại châu Âu đã thúc đẩy cạnh tranh năng suất. Các nước thống trị tại cựu lục địa phải cạnh tranh nhau để thu hút những trí thức và thợ thủ công xuất sắc nhất.

Nhà sử học kinh tế Eric L Jones gọi đây là "Hệ thống Thành bang”. Cái giá của việc nền chính trị châu Âu bị chia nhỏ thành nhiều thành bang cạnh tranh lẫn nhau là không nhỏ: chiến tranh gần như liên miên, cơ chế bảo hộ, nhiều hợp tác thất bại.

Dù vậy, nhiều học giả giờ đây tin rằng, trong dài hạn, việc các thành bang cạnh tranh với nhau lợi nhiều hơn là hại. Cụ thể, mô hình đó khuyến khích các sáng tạo khoa học và công nghệ hơn hẳn so với một lục địa thống nhất.

Trong chương cuối của cuốn "Lịch sử trượt dốc và sụp đổ của đế chế La Mã [1789], Edward Gibbon từng viết: "Châu Âu hiện bị chia nhỏ thành 12 vương quốc hùng mạnh nhưng không đồng đều”. Ba trong số đó được gọi là "những vương quốc thịnh vượng đáng trân trọng”, số còn lại là những vương quốc nhỏ hơn, nhưng vẫn độc lập.

Việc có nhiều quốc gia kìm chân nhau khiến cho người thống trị khó lạm dụng sự chuyên chế độc tài. Họ vừa lo sợ, vừa ngại với các thành bang láng giềng, Gibbon phân tích. Các nền cộng hòa có được trật tự, kỷ cương và sự ổn định. Nền quân chủ thấm nhuần nguyên tắc của tự do, hoặc ít nhất là có sự tiết chế. Theo thời gian, tinh thần danh dự và công lý cũng dần được đưa vào hiến pháp.

Có chung suy nghĩ, hai học giả David Hume và Immanuel Kant cũng phân tích rằng nếu những nhà thống trị bảo thủ cản trở sáng tạo gốc, các công dân thông minh nhất của họ sẽ bỏ sang vương quốc khác sinh sống [và thực tế đã chứng minh điều này].

Nhưng cũng có ý kiến cho rằng sự phân rẽ chính trị là chưa đủ. Trung Đông cũng phân rẽ trong gần suốt chiều dài lịch sử, châu Phi thậm chí còn phân rẽ hơn thế, nhưng họ đều không trải qua Kỷ Đại Thịnh Vượng.

Rõ ràng còn có các yếu tố "cần và đủ” khác nữa. Quy mô của "thị trường” sẽ quyết định việc các sáng chế công nghệ và khoa học có nhận được đủ sự chú ý mà chúng xứng đáng được nhận hay không.

Lấy thí dụ, năm 1769, Matthew Boulton từng viết cho đối tác James Watt [nhà vật lý học sáng chế ra động cơ hơi nước] của mình rằng "Sẽ không đáng để tôi mất thời gian nếu động cơ sản xuất ra chỉ phục vụ 3 hạt. Nhưng nếu như phục vụ cả thế giới thì lại hoàn toàn xứng đáng”.

Với châu Âu, sự phân rẽ về chính trị và tôn giáo dường như không ảnh hưởng đến thị trường. Cộng đồng trí thức và văn hóa vẫn hiện diện với quy mô đáng kể. Mạng lưới trí thức [cả nam giới lẫn nữ giới] có quy mô xuyên lục địa. Mô hình cấu trúc của nhà thờ Thiên chúa giáo Trung cổ cũng giúp cho việc di chuyển "xuyên châu Âu” trở nên rất bình thường.

Juan Luis Vives là một trong số những nhà lãnh đạo nổi bật nhất châu Âu thế kỷ 16. Ông nghiên cứu tại Paris, sống phần lớn thời gian tại Flanders nhưng đồng thời cũng là thành viên của Đại học Corpus Christi [Oxford, Anh]. Có thời gian, ông còn là gia sư cho con gái của vua Henry VIII.

Bước sang thế kỷ 17, lối sống "di động” này thậm chí còn phổ biến hơn trong giới trí thức.

Các học giả có thể di chuyển bên trong châu Âu với sự dễ dàng và tần suất chưa từng có tiền lệ, nhưng ý tưởng của họ thậm chí còn "di chuyển” nhanh hơn thế.

Thông qua báo in và hệ thống bưu chính có nhiều cải tiến, những công trình kiến thức được lan truyền rất nhanh. Trong trường hợp của những "siêu sao” như Galileo hay Spinoza, nếu như quan chức kiểm duyệt địa phương cố gắng ngăn cản nghiên cứu của họ được công bố, họ có thể dễ dàng tìm thấy những nhà xuất bản nước ngoài hứng thú với công trình đó. Điều này hoàn toàn đối lập với Đông Á.

Lấy thí dụ, những cuốn sách "bị cấm” của Galileo nhanh chóng được tuồn ra khỏi nước Ý. Cuốn Discorsi được xuất bản tại Leiden năm 1638, trong khi Dialogo được tái bản ở Strasbourg năm 1635.

Khi một phát hiện mới được công bố ở bất cứ đâu trong phạm vi châu Âu, nó sẽ được thử thách, tranh luận, chứng minh bởi cộng đồng học giả của toàn cựu lục địa.

Chính vì thế, những học giả xuất chúng thời đó thường hướng tới độc giả toàn châu Âu chứ không phải độc giả trong nước đơn thuần. Họ tự coi mình là công dân của "Nền cộng hòa Thư tín” và coi đó là một nền thịnh vượng chung tự do, một đế chế của sự thật. Và đó là một thị trường cực kỳ cạnh tranh.

Châu Âu được nhìn nhận như một "Cộng hòa vĩ đại” duy nhất, với hệ thống nghệ thuật và luật pháp chung. Đó là một châu Âu "khác biệt đầy lợi thế” so với tất cả các nền văn minh khác, Gibbon phân tích.

Cộng đồng học giả được hưởng lợi từ cả hai mặt của mô hình châu Âu: hệ thống vương quốc cạnh tranh và một hệ thống nghiên cứu hàn lâm xuyên quốc gia hợp nhất.

Chính thực tế này đã đóng góp nhiều nhân tố văn hóa nền tảng cho Kỷ Đại Thịnh vượng: Một niềm tin vào sự tiến bộ xã hội và kinh tế, thái độ coi trọng sáng tạo khoa học và trí tuệ, những chương trình nghiên cứu nhằm vào các dịch vụ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh nhất…

Mặc dù vậy, việc coi những tiến bộ kinh tế dựa trên trí thức như là động lực chính đằng sau cuộc Cách mạng Công nghiệp vẫn còn gây tranh cãi. Những thí dụ về phát minh thuần túy khoa học trong thế kỷ 18 còn khá ít, dù sau năm 1815, số lượng đã tăng nhanh hơn.

Thế nhưng nếu ta bác bỏ hoàn toàn sự liên quan của cuộc cách mạng khoa học với tăng trưởng kinh tế hiện đại, chúng ta sẽ bỏ lỡ một sự thật là nếu như không ngày càng hiểu rõ tự nhiên, những tiến bộ trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp của thế kỷ 18 [nhất là ngành dệt] sẽ không thể có được.

Một điều thú vị là những tiến bộ khoa học không chỉ được thúc đẩy bởi sự nổi lên của khoa học mở và của thị trường ý tưởng xuyên quốc gia. Chúng còn được dẫn dắt bởi sự xuất hiện của những công cụ và thiết bị tinh vi hơn.

Các công cụ quan trọng nhất bao gồm kính hiển vi, kính viễn vọng, nhiệt kế hiện đại và phong vũ biểu. Tất cả đều được phát triển vào nửa đầu thế kỷ 17.

Phát hiện về chân không và khí quyển đã đặt nền móng cho động cơ khí quyển. Đổi lại, động cơ hơi nước cũng tạo cảm hứng để các nhà khoa học nghiên cứu bản chất vật lý của việc biến nhiệt năng thành chuyển động. Hơn một thế kỷ sau cú bơm đầu tiên của động cơ hơi nước Newcomen, môn khoa học nhiệt động học đã ra đời.

Đến thế kỷ 18, sự giao thoa giữa khoa học thuần túy và lãnh địa của các kỹ sư, thợ cơ khí còn trở nên mạnh mẽ hơn. Tri thức "cái gì” tương tác liên tục với tri thức "như thế nào”.

Tất nhiên, chúng ta phải công nhận với nhau rằng Kỷ Đại Thịnh Vượng của châu Âu [và thế giới] không phải là tuyệt đối tất yếu. Chỉ cần một vài thay đổi nhỏ trong điều kiện ban đầu, hay thậm chí là vài tai nạn phát sinh trong dọc hành trình, nó có lẽ đã không xảy ra. Nếu như những thế lực bảo thủ quyết liệt ngăn chặn và có thái độ thù địch hơn với cái mới, nếu những thể chế chính trị và quân sự có biến động…, lịch sử đã không có một Kỷ Đại thịnh vượng.

Mức độ "trời định” trong chiến thắng của tiến bộ khoa học và tăng trưởng kinh tế tại châu Âu cũng chẳng nhiều hơn gì so với việc người Homo tiến hóa và trở thành giống loài thống trị trái đất cả.

Còn thế giới hiện tại, suy cho cùng, vẫn bao gồm nhiều thể chế đối lập và cạnh tranh. Thị trường dành cho ý tưởng đang sôi động hơn bao giờ hết, và các sáng tạo xuất hiện với tốc độ nhanh chưa từng có. Những gì chúng ta đã gặt hái được về mặt công nghệ mới chỉ ở tầm thấp, và trái ngọt lành nhất thực ra vẫn còn đợi ở tương lai.

Joel Mokyr là Giáo sư chuyên ngành kinh tế học và lịch sử tại Đại học Northwestern [Illinois]. Năm 2006, ông được trao tặng Giải thưởng Lịch sử Heineken do Học viện Khoa học Hoàng gia Hà Lan trao tặng. Cuốn sách mới nhất của ông là "Văn hóa tăng trưởng: Khởi nguồn của kinh tế hiện đại [2016]”.

Yên Nhiên

Theo Aeon.co

Từ khóa: kinh tế học, khoa học chính trị, kinh tế châu Âu, Đế chế La Mã, sáng chế công nghệ, vật lý học

Cùng chuyên mục

Xem theo ngày Ngày 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 Tháng Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Năm 2022 2021 2020 2019 2018 2017 2016 2015 2014 XEM

Nền kinh tế thịnh vượng

Đây là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới cả về danh nghĩa và theo ngang giá sức mua [sau Hoa Kỳ]. GDP danh nghĩa của Liên minh châu Âu được ước tính là 18,8 nghìn tỷ đô la [năm 2018], chiếm khoảng 22% nền kinh tế toàn cầu.
Ngành dịch vụ là ngành quan trọng nhất, chiếm khoảng 74,7% GDP, so với ngành sản xuất – 23,8% GDP và nông nghiệp – chỉ 1,5% GDP.

Phương Tây nhìn người Châu Á thế nào?

Nguồn hình ảnh, PA

Chụp lại hình ảnh,

Nhiều nước Phương Tây đã quen với xã hội đa văn hóa

Trong bài tiểu luận trước, tôi đã đề cập đến những vấn đề, góc nhìn và sự phát triển gần đây mà người Việt cần biết trước khi họ mạo hiểm sang Phương Tây.

Tuy nhiên, tôi đã sao nhãng một câu hỏi rất quan trọng: “Nói chung, người Tây nhìn và đối xử với người Việt và người Châu Á như thế nào?”

Tin mừng là người Tây nói chung nhìn người Châu Á cũng giống như mọi người khác. Vì đạo đức tự do được phổ biến và cá nhân được đề cao, nhiều nước Phương Tây tin tưởng rằng mọi người nên được đối đãi bình đẳng và công bằng. Có pháp luật ở mỗi nước khuyến khích và bảo vệ lý tưởng này, tức là trong việc làm và cả trong đời sống công cộng, không phân biệt nam hay nữ, gia đình, giới tính, tôn giáo, dân tộc hoặc là chủng tộc. Quan trọng nữa là những đạo luật này phản ánh sự cởi mở và quyết tâm có công bằng xã hội mà đã giúp cho phương Tây thành công và đáng được đến thăm hay định cư.

Nhưng dĩ nhiên, xã hội phương Tây, như bất cứ xã hội nào, không phải lúc nào cũng sống đúng theo lý tưởng của mình. Mặc dù những vụ phân biệt chính thức hay quá khích ít xảy ra, nhưng sự phân biệt thực sự vẫn còn. Theo kinh nghiệm của tôi sau khi ở Úc hơn 30 năm, rất hiếm khi xảy ra các vụ tấn công bạo lực do kỳ thị chủng tộc. Vì vậy, mỗi người đi nước ngoài, dù phải lo về an toàn cá nhân, nhưng không phải vì thế mà ngần ngại làm chuyến “Tây du ký”.

Tệ phân biệt mà người Châu Á nên chú ý hơn là sự phân biệt “tinh tế hơn”, hiện hữu trong những cửa hàng và quán ăn nơi mà người bán hàng và hầu bàn có vẻ đối xứ với mình cộc lốc và uể oải hơn những khách không phải là người Châu Á. Đôi khi chúng ta bị bắt gặp đang nói chuyện to bằng tiếng Việt và người qua đường nhìn chúng ta với thái độ khinh miệt. Và chúng ta có thể nhận ra khi người khác cười khẩy vì những điều bình thường đại loại như râu tóc, ngón tay nhỏ dài, một món ăn không quen hay cách ta đậu xe hơi.

Vì sao trẻ châu Á thường giỏi toán hơn trẻ châu Âu

Nguồn hình ảnh, Other

Nếu tôi đề nghị bạn viết ra con số "chín mươi hai", thì hẳn là bạn viết được ngay không cần phải nghĩ.

Con người ta cho tới khi trưởng thành thì việc kết nối tư duy giữa các con số và tên gọi của chúng gần như là tự động, vì vậy chúng ta hầu như không cần phải nghĩ.

Bụi siêu mịn: sát thủ lạnh lùng trong không khí

Cát đang làm sụp đổ đồng bằng ở Việt Nam ra sao

Quảng cáo

Cuộc săn tìm sói ma trên núi Nhật

Đó là lý do tại sao mà bạn sẽ thật sự ngạc nhiên khi nghe nói rằng cách thể hiện con số 92 trong tiếng Anh ["ninety two"] chưa phải là theo cách hay nhất.

Có một số ngôn ngữ khác có cách mô tả các con số có hai chữ số hợp lý hơn nhiều. Nhưng vấn đề ở đây không phải là chuyện ngữ nghĩa - ngay từ năm 1798, các nhà khoa học cho rằng ngôn ngữ mà chúng ta học để đếm có thể ảnh hưởng đến khả năng tư duy số học của chúng ta.

Trên thực tế, có một nước phương Tây đã phải xem xét lại toàn bộ hệ thống ngôn ngữ số đếm của mình trong thế kỷ trước, để giúp việc dạy toán và làm toán được dễ dàng hơn.

Vậy đếm theo cách nào là tốt nhất?

Gần như tất cả các nền văn hóa ngày nay đều sử dụng hệ thập phân, hay hệ đếm cơ số 10, theo đó sắp xếp các số từ 0 đến 9 thành các số hàng đơn vị, hàng chục và hàng trăm, hàng nghìn, hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn, hàng triệu, và cứ tiếp tục như vậy.

Vì sao châu Âu đang xoay trục sang khu vực châu Á?

10:21 28/11/2021

Từ các thị trường đang nổi đến các nền kinh tế công nghiệp hóa, khu vực châu Á đang là một ưu tiên kinh tế và chính trị ngày càng lớn với Liên minh châu Âu [EU] và các nhà nước châu Âu khác đang nỗ lực tìm kiếm lợi ích từ các cường quốc lớn khác trong một nỗ lực thúc đẩy lợi ích cạnh tranh trong kỷ nguyên hậu đại dịch.

  • Thủ tướng nêu bốn đề xuất tăng cường hợp tác giữa các nước Á-Âu

Trong khi truyền thông trong năm 2021 dành sự quan tâm đặc biệt cho việc nước Mỹ dưới thời Tổng thống Joe Biden ngày càng tập trung nhiều đến châu Á, việc châu Âu đang xoay trục sang khu vực phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới này lại bị bỏ sót. Tín hiệu mới nhất cho thấy ý đồ xoay trục sang châu Á của châu Âu được thể hiện tại Hội nghị Cấp cao Á-Âu lần thứ 13 [ASEM 13], diễn ra theo hình thức trực tuyến trong hai ngày 25-26/11.

Nếu cộng lại, 2 đại khu vực Á-Âu này chiếm khoảng 60% GDP, dân số và thương mại toàn cầu, với những tiềm năng đáng kể trong tương lai. Các nhà lãnh đạo tham dự Hội nghị đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa châu Á và châu Âu trong bối cảnh cả hai châu lục đang nỗ lực vượt qua cuộc khủng hoảng của đại dịch COVID-19.

Mục tiêu hàng đầu của châu Âu khi hợp tác với châu Á là xây dựng một lợi thế cạnh tranh để đối trọng với các cường quốc thế giới khác, trong đó có Mỹ. Ngoài Hội nghị thượng đỉnh ASEM, EU còn tổ chức các hội nghị thường niên với các thị trường khổng lồ đang nổi như Ấn Độ, Trung Quốc cùng với các quốc gia công nghiệp hóa lớn khác như Nhật Bản nhằm củng cố mục tiêu này. Nỗ lực này cũng đã thu về được những lợi ích.

Lấy ví dụ như Ấn Độ - quốc gia đang sốt sắng thúc đẩy các mối quan hệ mạnh mẽ hơn. Lục địa châu Âu đã trở thành đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của Ấn Độ, và đây là lý do tại sao một thỏa thuận thương mại song phương mới đang được thảo luận là một phần thưởng tiềm năng quan trọng cho cả hai bên. Có những lý lo lớn hơn đằng sau những lợi ích song trùng này, trong đó bao gồm một nhu cầu ngày càng gia tăng trong việc phát triển các diễn đàn quốc phòng chung, chẳng hạn như an ninh hàng hải tại Ấn Độ Dương, nơi 40% thương mại song phương đi qua.

Mặc dù Ấn Độ là một mục tiêu hàng đầu của châu Âu tại châu Á, song đây hoàn toàn không phải là mục tiêu duy nhất. Điều này được thể hiện trong chiến lược mới của châu Âu về sự hợp tác với khu vực, đã được Hội đồng EU - vốn ủng hộ sự ổn định và một môi trường “cởi mở và công bằng” cho thương mại và đầu tư - thông qua trong năm nay.

Hội nghị ASEM 13 diễn ra theo hình thức trực tuyến trong hai ngày 25- 26/11.

Dĩ nhiên, Trung Quốc cũng là một mục tiêu trong tầm ngắm của châu Âu tại khu vực này, bất chấp sự lạnh nhạt trong mối quan hệ song phương kể từ khi đại dịch bùng nổ. Danh mục hàng đầu trong chương trình nghị sự EU-Trung Quốc là một thỏa thuận toàn diện mới về đầu tư, dù đã được nhất trí từ tháng 12 năm ngoái, nhưng đến giờ vẫn chưa được phê chuẩn. Đối thoại EU-Trung Quốc rất đa diện, trong đó cả hai bên đều sốt sắng tập trung vào các lĩnh vực cùng hợp tác và quan tâm, bao gồm việc đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu.

Lý do cơ bản khiến các cuộc thảo luận EU-Trung Quốc về sự ấm lên toàn cầu nhìn chung rất tích cực như vậy là bởi cả hai có tầm nhìn chung về một tương lai thịnh vượng và được đảm bảo về năng lượng trong một môi trường khí hậu ổn định, đồng thời công nhận sự cần thiết cho hợp tác song phương để đạt được mục tiêu này. Chẳng hạn, thỏa thuận về sự ấm lên toàn cầu năm 2015 giữa họ đã đẩy mạnh sự hợp tác trong các chính sách giảm phát thải trong nước, các thị trường carbon, các thành phố phát thải ít carbon, vấn đề phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính từ các ngành công nghiệp hàng không và hàng hải.

Kế hoạch đầu tư vào kinh tế xanh của Trung Quốc trong những năm tới là rất lớn, và đây là một thực tế mà châu Âu đang ngày càng ghi nhận. Hiện cũng có những cơ hội đầu tư đáng kể cho các công ty công nghệ và khoa học của khu vực, vốn là những bên đi đầu trong phần lớn chương trình nghị sự về công nghệ sạch. Thế nhưng, dù các mối quan hệ của châu Âu với các thị trường đang nổi là trọng yếu, các mối quan hệ của khối này với các nước công nghiệp hóa cũng quan trọng không kém.

EU đang xúc tiến một chương trình nghị sự song phương phát triển mạnh mẽ với Nhật Bản và hai bên đang đẩy mạnh vai trò lãnh đạo trong thương mại quốc tế và trật tự kinh tế dựa trên các quy tắc. Nhật Bản đang là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới và là một trong những thị trường xuất khẩu hàng đầu châu Âu tại châu Á. Tại EU, ước tính có khoảng 600.000 việc làm liên quan đến mối quan hệ thương mại song phương này, với khoảng 74.000 công ty châu Âu đang xuất khẩu sang Nhật Bản.

Chương trình nghị sự kinh tế nòng cốt này đã nhận được một cú huých vào năm 2019 khi thỏa thuận thương mại tự do EU-Nhật Bản đi vào hiệu lực, chiếm khoảng 1/3 GDP toàn cầu và khoảng 650 triệu dân. Tuy nhiên, ngoài những con số, hai bên cũng nhấn mạnh rằng hiệp định thương mại này quan trọng là bởi nó dựa trên các giá trị và nguyên tắc. Điều này một phần liên quan đến thực tế rằng đây là thỏa thuận đầu tiên EU ký mà bao gồm các chi tiết ủng hộ thỏa thuận khí hậu Paris.

Đặc biệt, còn có một cam kết ủng hộ thỏa thuận Paris bằng cách thực hiện một sự “đóng góp tích cực” để giảm sự ấm lên toàn cầu bằng cách loại bỏ phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính. Cam kết này được đưa ra sau một động thái của Ủy ban châu Âu nhằm nỗ lực đảm bảo rằng tất cả các thỏa thuận thương mại EU trong tương lai đều sẽ đề cập đến việc phải phù hợp với các mục tiêu của thỏa thuận Paris.

Ba ví dụ trên đây giải thích lý do tại sao châu Âu lại nhận thấy một cơ hội lớn đến như vậy tại châu Á. Từ các thị trường đang nổi đến các nền kinh tế công nghiệp hóa, khu vực này đang là một ưu tiên kinh tế và chính trị ngày càng lớn với EU và các nhà nước châu Âu khác đang nỗ lực tìm kiếm lợi ích từ các cường quốc lớn khác trong một nỗ lực thúc đẩy lợi ích cạnh tranh trong kỷ nguyên hậu đại dịch.

  • Châu Âu mong gì khi xoay trục sang Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương?
  • EU xoay trục sang Châu Á - Thái Bình Dương

# châu á châu âu lý do xoay trục

Facebook Twitter Link gốc

Video liên quan

Chủ Đề