Tại sao cơ thể cần phải bài tiết các sản phẩm do

Hệ tiết niệu đóng vai trò quan trọng đối với cơ thể, trong đó, thận là bộ phận thực hiện nhiệm vụ lọc và bài tiết nước tiểu. Có nhiều phương pháp được dùng để đánh giá chức năng của thận như xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, siêu âm, chụp CT, sinh thiết. Trong đó, để đánh giá chức năng bài tiết của thận sẽ dựa vào một số tiêu chí cụ thể trong các xét nghiệm và kỹ thuật.

Trong cấu tạo cơ thể người có hai quả thận, nằm ở hai bên cột sống, dưới lồng xương sườn ở vị trí thấp nhất. Trong mỗi quả thận là triệu nephron - đơn vị chức năng của thận. Một nephron là một đơn vị lọc của các mạch máu nhỏ, còn gọi là cầu thận, gắn với ống thận. Máu vào cầu thận được lọc, phần chất lỏng còn lại đi dọc theo ống, cùng các hóa chất và nước được thêm vào hoặc loại bỏ khỏi chất lỏng, để lọc theo nhu cầu của cơ thể. Sản phẩm cuối cùng của thận chính là nước tiểu, được cơ thể bài tiết ra ngoài.

Như vậy, có thể thấy, lọc và bài tiết các chất thải, chất lỏng dư thừa ra khỏi cơ thể chính là hai chức năng của thận. Ngoài hai chức năng quan trọng này, thận còn thực hiện các nhiệm vụ khác như cân bằng kiềm - toan, sản xuất hormone điều hòa huyết áp, kiểm soát quá trình chuyển hóa canxi và kích thích sản xuất tế bào hồng cầu.

Thận đóng vai trò quan trọng trong hệ tiết niệu

2.1 Xét nghiệm máu đánh giá chức năng bài tiết của thận

  • Xét nghiệm ure máu: Ure là sản phẩm được phân hủy từ protein trong các loại thực phẩm tiêu thụ hằng ngày. Qua cầu thận, ure được lọc và bài tiết ra ngoài theo nước tiểu. Thông qua chỉ số ure máu, xét nghiệm cho phép đánh giá chức năng bài tiết của thận và theo dõi các bệnh lý ở thận như suy thận, viêm ống thận, viêm cầu thận, sỏi thận, sỏi niệu quản,...
  • Xét nghiệm creatinin máu: Creatinin là chất thải của sự vận động các cơ bắp. Thông qua nước tiểu, creatinin cũng được bài tiết ra ngoài qua nước tiểu. Tùy vào độ tuổi, trọng lượng của cơ thể, nồng độ creatinin trong máu của mỗi người sẽ khác nhau. Khi chỉ số creatinin cao, nghĩa là chức năng thận đang bị rối loạn.

2.2 Xét nghiệm nước tiểu đánh giá chức năng bài tiết của thận

Điện di nước tiểu: Khi thấy protein được bài tiết qua nước tiểu, đó có thể là dấu hiệu cảnh báo chức năng của thận đang gặp vấn đề do thận bị tổn thương hoặc nồng độ immunoglobulin trong máu tăng lên. Phân loại protein trong xét nghiệm điện di nước tiểu cho phép phân biệt bệnh viêm cầu thận cấp hoặc protein niệu quản do ống thận bị tổn thương.

Xét nghiệm nước tiểu giúp bác sĩ đánh giá chức năng bài tiết của thận

2.3 Xét nghiệm hình ảnh đánh giá chức năng bài tiết của thận

Chụp X-quang thận với thuốc tĩnh mạch là phương pháp cho phép đánh giá chức năng bài tiết của thận. Phương pháp này thường được áp dụng trong phẫu thuật điều trị đối với bệnh nhân bị sỏi tiết niệu [được thực hiện trước khi phẫu thuật], sỏi tiết niệu gây tắc nghẽn và ứ nước trong niệu quản, làm tăng áp lực sau thận và ức chế chức năng bài tiết của thận. Bên cạnh đó, chức năng bài tiết của thận cũng bị suy giảm hoặc mất hoàn toàn trong giai đoạn cuối của các bệnh lao thận hoặc khối u ở thận.

Ngoài các phương pháp xét nghiệm đánh giá chức năng thận từ máu, nước tiểu, chẩn đoán hình ảnh thì còn nhiều các phương pháp để đánh giá khả năng bài tiết và tái hấp thu của thận, cụ thể là ống thận:

  • Nghiệm pháp gây đái nhiều: Người bệnh được cho uống một lượng nước nhất định, khoảng 600ml nước trong khoảng thời gian là 4 giờ. Bình thường, lượng nước tiểu được bài tiết ra ngoài là lớn hơn lượng nước được uống vào, tỷ trọng thay đổi tùy vào thời điểm. Nghiệm pháp này được áp dụng để phát hiện suy thận, khiến chức năng của thận giảm, người bệnh có đào thải lượng nước tiểu ra ngoài ít hơn và có tỷ trọng không đổi hoặc giảm.
  • Nghiệm pháp pha loãng: Người bệnh được yêu cầu nhịn đói và thực hiện thông bàng quang để lấy hết nước tiểu. Sau đó, trong khoảng 30 phút, người bệnh được cho uống 1,5 lít nước. Mỗi 30 phút, người bệnh được lấy nước tiểu một lần để định lượng và tỷ trọng nước tiểu. Nghiệm pháp được thực hiện trong 4 giờ liên tục. Kết quả bình thường là tổng lượng nước tiểu lấy trong 4 giờ lớn hơn hoặc bằng lượng nước được uống vào, giá trị tỷ trọng thấp nhất là nhỏ hơn 1,002. Nghiệm pháp này cũng được áp dụng để phát hiện suy thận, khiến chức năng của thận giảm, với kết quả là lượng nước tiểu bài tiết ít hơn lượng nước được uống vào, giá trị tỷ trọng thấp nhất lớn hơn 1,002. Tuy nhiên, nghiệm pháp này có hạn chế là chống chỉ định trong trường hợp người bệnh bị suy hoàn toàn hoặc phù.

Nước tiểu được lấy làm xét nghiệm đánh giá chức năng bài tiết của thận

  • Nghiệm pháp cô đặc: Người bệnh được yêu cầu không hoạt động trong 24 giờ, không uống nước quá 500ml, chỉ được ăn khô. Lấy nước tiểu khoảng 3 giờ/lần để định lượng và tỷ trọng, thực hiện trong 24 giờ. Kết quả bình thường đo được là lượng nước tiểu được bài tiết đạt khoảng 300 - 700ml nước, tỷ trọng nằm trong khoảng 1,025 - 1,035, giá trị cao nhất phải đạt là 1,025. Nghiệm pháp này cũng được áp dụng để phát hiện suy thận, khiến chức năng của thận giảm khi giá tỷ trọng chỉ đạt dưới 1,025. Tuy nhiên nghiệm pháp này phụ thuộc vào nhiều yếu tố và hạn chế.
  • Phương pháp PSP: Người bệnh được yêu cầu uống khoảng 200ml nước thành 2 lần, thời gian uống mỗi lần cách nhau 30 phút. 15 phút sau khi uống nước, tiến hành lấy nước tiểu của người bệnh, tiêm đường tĩnh mạch dung dịch PSP có nồng độ 6% một lượng 1ml. Sau đó, tiến hành thông bàng quang nước tiểu 2 lần, lần thứ nhất là 15 phút sau khi tiêm. Lần thứ hai là 70 phút sau khi tiêm. Nước tiểu được lấy và cho vào 2 cốc khác nhau, làm kiềm tính. Kết quả bình thường là nồng độ PSP đo được sau 15 phút là tối thiểu 15%, 70 phút tối thiểu là 55%. Phương pháp này cũng được áp dụng để phát hiện suy thận, khiến chức năng của thận giảm khi nồng độ PSP đo được trong nước tiểu bài tiết giảm, nếu giảm 1⁄2 thì tức là nồng độ ure máu tăng cao. Nguyên nhân là do tắc nghẽn đường tiết niệu, khiến thời gian bài tiết PSP chậm hoặc PSP không được bài tiết. Phương pháp này có ưu điểm là ít gây độc và dễ thực hiện nên thường được áp dụng vì dễ thực hiện và ít độc.

  • Phương pháp xanh Methylen: Tiêm tĩnh mạch 1ml dung dịch xanh methylen 1/120. Sau đó, tiến hành soi bàng quang để có thể quan sát thời gian từng bên thận bài tiết xanh methylen ra ngoài. Nếu không thể thực hiện soi bàng quang thì thay thế bằng kỹ thuật thông bàng quang lấy nước tiểu. Nước tiểu được bài tiết có màu xanh thì có xanh methylen. Kết quả bình thường là nước tiểu có màu xanh sau 30 phút, sau khoảng giờ thứ 3 hoặc 4, nước tiểu có màu xanh nhất và hết xanh sau 48 giờ. Nghiệm pháp này được áp dụng để phát hiện một số bệnh lý ảnh hưởng đến chức năng của thận như viêm thận kẽ khiến bài tiết chậm trong thời gian dài, viêm thận bán cấp khiến bài tiết nhiều và sớm, bể thận ứ nước tiểu khiến thời gian bài tiết chậm hoặc có thể bị tắc hẳn. Tuy nhiên, 2 phương pháp PSP và xanh methylen có thể cho kết quả không chính xác, vì một số bệnh lý như tiền liệt tuyến, sỏi thận niệu quản, ... sẽ gây cản trở trong việc bài tiết các chất nếu dùng không đúng liều lượng.

Xanh Methylen được sử dụng tiêm tĩnh mạch trong phương pháp xanh Methylen

Có nhiều phương pháp để đánh giá chức năng bài tiết của thận như xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, chụp X quang và một số phương pháp khác. Tùy vào tình trạng bệnh, bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp đánh giá phù hợp.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec không chỉ nổi tiếng bởi chất lượng dịch vụ hoàn hảo, đội ngũ Y bác sĩ có chuyên môn giàu kinh nghiệm mà còn nổi tiếng với hệ thống trang thiết bị Y tế hiện đại nhằm chẩn đoán các chức năng của thận, tiết niệu bằng các kỹ thuật xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm bằng hình ảnh như X-quang, siêu âm, đồng thời sàng lọc bệnh tiết niệu phát hiện các bệnh lý về thận tiết niệu từ rất sớm.... Do đó khi thực hiện thăm khám bệnh tại Vinmec, Quý khách hàng có thể hoàn toàn yên tâm.

Để đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Quý Khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY

XEM THÊM:

Tôi 55 tuổi, là Việt Kiều định cư ở Mỹ, đã có vợ và 3 con gái, là tổng giám đốc một công ty.Tôi có cuộc sống hạnh phúc, bình an, không lao động nặng, đi bộ 2 km mỗi sáng sớm, ăn uống nghỉ ngơi điều độ, không táo bón hay tiêu chảy.Tôi từng thắc mắc với một số bác sĩ nổi tiếng người Mỹ nhưng không giải thích được. Có bác sĩ nói rằng cơ thể ông chỉ bài tiết 35%, không phải là 25%. Kính mongbác sĩ chuyên khoa tiêu hóagiải đáp. [Tony Thịnh Lê]

Hệ tiêu hóa của con người ẩn chứa nhiều thú vị. Ảnh minh họa: healethjockey.

Trả lời

Xin chào bạn,

Đây là một câu hỏi thật thú vị mà chúng tôi e là phải tốn nhiều thời giờ, giấy mực để có thể làm cho bạn vừa ý. Chúng tôi cũng rất hiểu vì sao bạn vẫn còn băn khoăn khi đã hỏi qua nhiều vị bác sĩ đáng kính mà vẫn chưa nhận được câu trả lời vừa ý. Nên xem xét vấn đề trên nhiều phương diện.

1. Trước khi đi vào câu hỏi, chúng ta cùng tìm hiểu qua hệ thống tiêu hóa của cơ thể con người

Về mặt giải phẫu, hệ tiêu hóa của con người gồm các phần từ trên xuống dưới bao gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già [đại tràng, trực tràng], hậu môn. Xét về mặt chức năng, đây là một hệ thống dây chuyền xử lý thức ăn mà đầu vào bao gồm tất cả những thứ mà chúng ta tiêu thụ hàng ngày. Đầu ra gồm 2 phần: các chất dinh dưỡng cơ thể có thể sử dụng, được hấp thu qua ruột vào máu và những chất không dinh dưỡng mà cơ thể coi là chất thải được bài tiết ra ngoài. Đây cũng chính là phần "25%" mà bạn đang băn khoăn, lo lắng.

Đi vào chi tiết hơn, hệ thống nhà máy tiêu hóa của chúng ta luôn thực hiện đa chức năng ở từng vị trí có thể tạm hiểu như sau:

- Răng: Máy nghiền thức ăn, biến những khối thức ăn lớn thành từng mảnh nhỏ, thuận tiện cho việc tiêu hóa.

- Dạ dày: Máy trộn, nhào nắn thức ăn thành từng viên nhỏ, hòa lẫn với dịch tiêu hóa và đưa xuống ruột để xử lý.

- Ruột non: Máy trích thức ăn, đảm bảo mọi thức ăn chúng ta đưa vào đều được phân tích thành những thành phần nhỏ nhất cóthể hấp thu qua niêm mạc. Cụ thể đó là các gốc đường đơn, các axit béo, các phân tử amino axit. Những thành phần cầnthiết khác như nước và các chất khoáng vô cơ, các loại vitamin... cũng được hấp thu ở từng chặng khác nhau của ruột.

- Ruột già: Nhà kho nơi trữ, xử lý và giải phóng các chất thải không hấp thu được.

Như bạn thấy, mỗi người có một chế độ ăn, một bộ răng khác nhau và đương nhiên dạ dày ruột dài ngắn cũng khác nhaunên tính chất thành phẩm cũng chẳng thể nào giống nhau được. Nói đơn giản là đầu vào ít tạp chất, máy tốt thì tỷ lệ sản phẩm hư và chất thải sẽ rất ít. Ngược lại đầu vào nhiều tạp chất, máy móc rệu rạo thì số sản phẩm hư và chất thải sẽ nhiều hơn. Tất nhiên thực tế sẽ phức tạp hơn ví dụ này rất nhiều nhưng chỉ để cho bạn thấy là con số 25% hay 35% khác nhau chẳng có gì lạ cả.

2. Tại sao 25% và tại sao 35%?

Đây là lần đầu tiên chúng tôi nhận được một câu hỏi quan tâm đến số lượng thay vì chất lượng. Phần lớn rắc rối của vấn đề này liên quan đến tính chất [lỏng hay đặc] và tần suất [tiêu chảy hay táo bón] thay vì số lượng phân. Ai cũng ngầm hiểu rằng ăn nhiều thì đi nhiều, không ăn thì không đi nên chẳng mấy ai quan tâm đến chuyện này.

Số liệu bình thường cho thấy ở một người trưởng thành:

- Số lần đại tiện bình quân là một lần mỗi ngày. Nhưng cũng có thể nhiều hơn đến 3 lần mỗi ngày hoặc ít hơn như một lần mỗi 3 ngày. Điều quan trọng là với tần suất nào thì người ta vẫn cảm thấy khỏe khoắn, yêu đời, không thấy khó chịu vùng bụng và vẫn ăn ngon miệng. Mặt khác, đó là tình trạng thường xuyên, chứ không phải mới xuất hiện.

- Số phân sản xuất ra trung bình là một ounce [28,3 g] cho mỗi 12 pound [khoảng 5,5 kg] cân nặng. Ở người Việt Nam, trung bình khoảng 150 g đến 200 g mỗi ngày.

Tất nhiên như trên đã nói, số lượng phân tùy thuộc nhiều vào chế độ ăn và tình trạng hệ tiêu hóa của mỗi người. Nếu bạn thải phân số lượng ít, tình trạng cơ thể khỏe mạnh và sinh hoạt hợp lý thì bạn có một hệ tiêu hóa hoàn hảo và chằng có gì phải lo cả.

3. Số lượng thực phẩm còn lại đã được biến hóa và tích trữ vào đâu từ nhiều tháng năm qua?

Đây lại là một vấn đề thú vị khác. Trước hết chắc chắn số thức ăn chẳng thể nào chuyển đến ngân hàng để tích trữ, cũng chẳng thể nào bị trộm mất bởi ai đó. Chúng hẳn là vẫn đang tồn tại đâu đó trên người.

Định luật bảo toàn vật chất khẳng định vật chất không tự sinh ra và cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Có bao giờ bạn tự hỏi sao ngày nào cũng đổ xăng vào xe nhưng rồi chúng cứ biến mất dần đi? Xăng trong xe tồn tại dưới dạng hóa năng, qua động cơ để chuyển hóa thành động năng để đưa bạn mỗi ngày đến cơ quan, rồi lại về nhà mỗi tối.

Cũng như vậy, thức ăn đưa vào thường dưới dạng phức hợp đa phân tử, qua hệ tiêu hóa để trở thành các phân tử đơn giản hơn của các gốc đường, mỡ đạm để được hấp thu vào máu. Khi đến cơ quan, các phân tử này sẽ được đưa vào các nhà máy tế bào, qua các chu trình sinh hóa để phân giải thành dạng năng lượng cơ bản nhất, các phân tử ATP để cung cấp cho việc tổng hợp chất, cho hệ vận động, thần kinh... và cho triệu triệu hình thức vận động của cơ thể.

Nói đơn giản hơn, mọi thức ăn đưa vào đều sẽ được quy đến tận cùng là đơn vị sản sinh năng lượng [calorie]. Cán cân năng lượng sẽ là số calo nhập vào và số calo sử dụng. Ở một người bình thường, số năng lượng đưa vào [energy intake] sẽ bằng:Số năng lượng tiêu dùng [sinh nhiệt - làm việc - vận động] +Số năng lượng cơ thể cần có để phục hồi, thay thế, dự trữ.

Các thông số này một lần nữa phụ thuộc rất nhiều vào giới tính, tuổi, mức độ hoạt động thể chất, tình trạng bệnh lý... nên cũng không phải là một con số cố định. Trẻ em, người bệnh đang hồi phục cần tăng nguồn cung cấp vì có nhu cầu phát triển, bồi bổ cơ thể. Bệnh nhân béo phì cần giảm vì có nhu cầu đốt cháy năng lượng từ các khối mỡ thừa. Các vận động viên có mức tiêu thụ cao, nên cũng cần cung cấp năng lượng cao để bù đắp tương ứng. Bệnh nhân mãn tính lại có cân bằng âm tính vì ăn không đủ hoặc do bệnh tàn phá, nên sẽ gầy mòn nhanh chóng.

Nếu cán cân năng lượng là dương tính, số năng lượng thừa sẽ được tích trữ dưới dạng mô mỡ và bạn đang đối diện với nguy cơ béo phì, gan nhiễm mỡ, tăng cholesterol... Ngược lại, nếu qua nhiều năm mà bạn vẫn khỏe mạnh, không tăng cân bất thường, hình dáng bên ngoài "ngon lành" thì hệ thống chuyển hóa năng lượng của bạn đang hoạt động hoàn hảo.

Chúc bạn khỏe.

Tiến sĩ, bác sĩ Võ Xuân Quang
Phòng khám Đa khoa Quốc tế Yersin

Video liên quan

Chủ Đề