Tại sao gọi là ông ba mươi

Đã từ lâu lắm, trên cõi trời có một người có sức khỏe lạ lùng, những việc dời núi, lấp biển, đội đá, bẻ cây,… không một ai bì kịp. Nói về tài phép, ông cũng thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị trên Thiên Đình. Đặc biệt ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ. Vốn tinh nghịch và hung hăng quen thói từ hồi trẻ, Phạm Nhĩ không mấy khi ngồi yên. Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông thù ghét. Nhưng người ta đều tránh né ông, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng hảo hán không chịu nổi chỉ một cú đấm, cái gạt của ông.

Thấy mọi người đều thua tài, Phạm Nhĩ ngày một tỏ ra kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần xung quanh Ngọc Hoàng chẳng qua chỉ là đồ bị thịt, tài nghệ và sức khỏe không có tý gì. Và ông lấy làm bực mình vì sao bấy lâu danh tiếng mình nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng vời vào để trao cho một chức vị xứng đáng. Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phụ của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ đâm khinh nhờn cả Ngọc Hoàng, tự nghĩ rằng có sức mạnh và tài phép như mình thì nên làm vua nhà Trời mới phải. Thế rồi chẳng bao lâu ông đã tụ tập xung quanh mình một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân bất trị. Đội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên Đình mà vì sợ oai Phạm Nhĩ nên không một ai dám bắt. Cuối cùng, Phạm Nhĩ cầm đầu đội quân tiến đến Thiên Cung đòi hạ bệ Ngọc Hoàng để cho mình trị vì thiên hạ.

Nghe tin chẳng lành, Ngọc Hoàng thượng đế vội vàng sai các bậc tướng lĩnh đem quân nhà Trời ra ngăn chặn. Có đến mười tám vị tướng, vị nào cũng lục trí thần thông, miệng thét ra lửa, tay bẻ gãy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu. Không đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về.

Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ hầu cận, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Nhưng cũng chẳng mấy chốc ông đã làm cho bọn này nếm mùi thất bại chua cay. Quân đội nhà Trời vốn đông như kiến cỏ, không ngờ kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Thừa thắng, Phạm Nhĩ thúc quân tiến lên vây chặt Thiên cung.

Thấy thế, Ngọc Hoàng thượng đế hết sức lo lắng. Theo lời bàn của các triều thần, Ngọc Hoàng vội sai Bắc đẩu cầu cứu đức Phật. Nghe tin cấp báo, đức Phật liền sai Chuẩn Đề đi bắt Phạm Nhĩ. Nhưng đức Phật không ngờ Chuẩn Đề tài phép cao cường là thế, lại bị ăn đòn nặng nề của Phạm Nhĩ đến nỗi lê lết chạy về, xiêm giáp tả tơi.

Sau rốt, đức Phật đành phải tự thân ra đi. Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may chửi bới Ngọc Hoàng và bọn triều thần bất tài bất lực, thì đức Phật đã xuất hiện giữa không trung. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của đức Phật, toàn thân co rúm, không cất chân động tay được nữa. Thế là ông bị bắt. Bọn bộ hạ mất tướng như rắn mất đầu, không ai bảo ai tẩu tán khắp nơi.

Trước khi ra về, đức Phật giao lại tên tù cho Ngọc Hoàng xử trí, nhưng cũng dặn làm sao cho y hối lỗi chứ đừng giết hại. Ngọc Hoàng bèn quyết định đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp vật. Nhưng trước hết Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông để tước bớt sức mạnh, e rằng bất thần ông lại bay trở về Trời thì rất nguy hiểm. Hơn nữa, Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại. Tuy nhiên, thể theo lời dặn của đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm chúa tể sơn lâm để an ủi đôi phần.

Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn có cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông vẫn còn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu chúa tể mà Ngọc Hoàng phong cho. Cho đến sau này, dòng dõi nhà ông vẫn nối nhau làm chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiềng ông, không dám gọi cái tên “Hổ”, mà chỉ gọi tránh là ông “Ba Mươi”. Tại sao lại gọi là ông Ba Mươi? Đó là vì khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu ba mươi hèo để cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa.

Ngày nay còn có câu:

Trời sinh ra hùm có vây

Hùm mà có cánh, hùm bay lên trời

để nhớ cuộc náo động Thiên cung của Phạm Nhĩ xưa kia.

Nguồn: Truyện cổ tích Tổng hợp.

Tagged

Tiếng Việt có nhiều cách gọi tên cọp : hổ, hùm, khái ; có khi vì kiêng dè hay tôn xưng, người ta còn gọi ông kễnh, ông ngài, ông thầy, ông cả. Lại còn tên ông Ba Mươi, gây thắc mắc.

Lối giải thích của chúng tôi, tên này là do tục lệ tế thần Xương Cuồng hằng năm, vào ngày Ba Mươi Tết, có từ thời Văn Lang, theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, trong truyện Mộc Tinh. Người Văn Lang gọi Mộc Tinh, thần Cây Cối, là Xương Cuồng, như một ẩn dụ, ám chỉ loài thú dữ là cọp.

Tại sao gọi là ông ba mươi

 Tranh của Trần Chí Thành. Nguồn: TTO

Đây là giả thuyết, chúng tôi coi như một phát hiện, đưa ra để được trao đổi.

Lĩnh Nam Chích Quái là sưu tập những truyền thuyết dân gian có từ thời Lý Trần được Vũ Quỳnh và Kiều Phú san định vào thời Hồng Đức, cốt lõi gồm 23 truyện. Trong bốn truyện cơ bản gắn liền với nguồn gốc dân tộc, có truyện Mộc Tinh. Vũ Quỳnh, trong bài tựa viết 1492, minh định Xương Cuồng là thần cây chiên đàn.

Chiên đàn trong tiếng Hán Việt là một loài gỗ thơm. Theo điển tích, chiên đàn trồng nơi trường học, tượng trưng ông thầy giảng học, như trong truyện Phan Trần : « chiên đàn còn thoảng mùi hương lạ đời ». 

Theo Lĩnh Nam Chích Quái, thì lại là một cây vĩ đại, « trải qua hằng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay đổi dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật, (…) biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người ».

Lời mô tả gợi ý : Mộc Tinh có thể là thú dữ, chủ yếu là Hổ. « Dân phải lập đền thờ, hàng năm đến ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, mới được yên ổn. Dân thường gọi là thần Xương Cuồng ». Người dịch chú thích : Xương Cuồng có nghĩa là hành động một cách bạo ngược, tàn ác, không thể trấn áp được 1. « Kịp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu (còn gọi là Nhâm Ngao) làm huyện lệnh, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận ».

Đến đời Đinh Tiên Hoàng mới có pháp sư diệt được yêu quái.

Nhưng có nơi vẫn còn giữ cổ tục, như Phạm Đình Hổ kể lại trong bài Thần Hổ « Làng Ngọc Cục ở huyện ta (Đường An, Hải Dương, ĐT ghi ) khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu hổ phải bắt người làm việc hy sinh để cúng (…) Đó cũng như cái tục Nhâm Ngao tế thần Xương Cuồng vậy. Từ năm Canh Thân 1800 trở về sau thói ấy mới bỏ » 2.

Nhân cái tên lạ, ông Ba Mươi để gọi cọp, khi so sánh hai văn bản, ta có cơ sở để đặt giả thuyết : Xương Cuồng là Thần Hổ ; và Mộc Tinh là hình ảnh cọp, tai họa của rừng núi, cũng như Ngư Tinh là tai họa của sông biển, và Hồ Tinh (chồn cáo) là tai họa của đồng bằng.

Đây là một cách « đọc » truyền thuyết, cũng như ngày nay chúng ta hiểu truyện Sơn Tinh Thủy Tinh không phải là việc cưới hỏi, mà là việc chống nạn lũ lụt hằng năm, và xa hơn nữa việc trị thủy nói chung.

Việc đồng hóa cọp với cây cối cũng dễ hiểu : cọp là hình ảnh bí hiểm của rừng núi, hòa mình với cỏ cây, xuất hiện bất thường về đêm, có nhiều linh khiếu, khiến con người đồng hóa rừng thiêng với hùm thiêng. Mộc Tinh là ẩn dụ một thiên nhiên chưa đươc chế ngự.

Và vào thời Hồng Bàng người Văn Lang đã biết tránh cọp bằng cách dựng nhà sàn, « bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói » (LNCQ, chuyện Họ Hồng Bàng, sđd. tr. 24).

Một số di chỉ thời Đông Sơn, những lưỡi giáo tìm thấy ở núi Voi hay Sơn Tây có khắc hình cọp. Hay những tượng nhỏ bằng đồng thau tạc hình hổ sinh động.

Bên cạnh truyện Mộc Tinh là cổ tích cơ bản, tiếp theo người đời sau, cuối đời Lê, còn thêm truyện Trành Quỷ Hiển Linh, là chuyện Ma Trành : linh hồn người bị hổ ăn thịt biến thành tinh của hổ, thường dẫn đường cho hổ đi bắt người, khi có dịp lại hiện ra thành hình người (sđd. tr.125). Chuyện Ma Trành sẽ gợi ý cho người đời sau biết những tiểu thuyết đường rừng như Thần Hổ, 1937, Ai hát giữa rừng khuya,1942, của Tchya hay Truyện Đường Rừng, 1940 của Lan Khai.

Lĩnh Nam Chích Quái thuật chuyện Nhâm Ngao bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. So với chính sử, Đại Việt sử ký Toàn Thư, phần ngoại kỷ, kỷ nhà Thục, kể lại rằng Nhâm Ngao - tướng nhà Tần - cùng với Triệu Đà đem quân tấn công nước Âu Lạc của An Dương Vương. Năm 210 trước Tây Lịch, Triệu Đà xâm lấn bằng đường bộ, bị thua. Nhâm Ngao đem thủy quân đóng ở sông Tiểu Giang, tức sông Thiên Đức (sông Đuống) « phạm thổ thần, bị bệnh phải rút về », hai năm sau bệnh nặng, giao quyền lại cho Triệu Đà và khuyên Đà tự lập, rồi chết.

Toàn thư cho rằng Nhâm Ngao phạm thổ thần còn Lĩnh Nam Chích Quái cho rằng bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. Lời lẽ xê xích, nhưng nội dung chính yểu thì giống nhau.

Dĩ nhiên đây là chuyện người xưa mê tín theo con mắt ngày nay. Điều cần ghi nhận là người xưa tin rằng thần Xương Cuồng là thổ thần có nhiều quyền năng, có thể vật chết người, kể cả một ông đại tướng nguyên soái. Và chúng ta có lý do để đặt câu hỏi : thần Xương Cuồng ấy phải chăng là Thần Hổ mà người Văn Lang sợ hãi và trọng vọng, làm lễ tế hằng năm vào ngày Ba Mươi Tết ?

Rồi phải chăng từ phong tục cổ sơ này, đã có vào thời các vua Hùng, mà con hổ, con cọp được gọi là Ông Ba Mươi  cho đến ngày nay?

1 Lĩnh Nam Chích Quái, tr.39-41, nxb Văn Hóa, 1960.

2 Vũ Trung Tùy Bút, tr.146, nxb Văn Học, 1972.

Đặng Tiến
(Theo lophocvuive.com)