Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ

Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương

Mời các em học sinh tham khảo tài liệu:

Soạn bài: Cái tôi độc đáo của Tản Đà trong bài Hầu Trời

Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh

Thân phận của những người phụ nữ này lại vôcùng nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độxã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có chỗ đứngvà địa vị trong xã hội.

Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ

Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương

Vì vậy, những người phụ nữ có tài như Hồ Xuân Hươngthường không được coi trọng đồng thời việc làm của một người vợ thường ít đượcngười chồng cảm thông, dù cho quanh năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chămsóc cho gia đình luôn được yên ấm dù mình có phải chịu thiệt thòi.Họ là nhữngngười phụ nữ có tài có sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trongX H
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi, ba chìm với nước non

(Bánh trôi nước)
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơcái hồng nhan với nước non
(Tự tình III)

Trong chế độphong kiến suy tàn ở Á Đông hàngmấy nghìn năm con người rất đau khổ, nhưng khổnhất là người đàn bà. Không phải vô cớ mà Nguyễn Du đã nấc lên thay cho ngườiphụ nữ trong văn chiêu hồn:

Đau đớn thay phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?

Trong truyệnkiều Nguyễn Du một lẫn nữa lại kêu lên như thế:

Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Đặng Trần Cônvà Đoàn Thị Điểm cũng có nói đến cái khổ của người chinh phụ. Còn với XuânHương không chỉ than cho người đàn bà dưới chế độ phong kiến mà bản thân mìnhlà bị cái lễ giáo khắc nghiệt ấy cuốn chặt lấy mình. Xuân Hương đã nói một cáchtrần trụi nhất, với cái mạnh mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời mình cùng vớisố phận của những người phụ nữ nói chung trong xã hội cũ:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

Ở xã hội xưa,trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ không cho phép được như vậy.Họ đau có quyền làm chủ đời mình, trong ca dao ta cũng bắt gặp rất nhiều câu canói về số phận hẩm hiu của người phụ nữa:

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơgiữa chợ biết vào tay ai

Hay:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nóiriêng và trong xã hội phong kiến nói chung đều là những con người với số phận
bi đát.Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho sốphận người phụ nữ Việt Namxưa, phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắctrở.

Người phụ nữ với nổi đau trong đường tình duyên.

Do sống trong xã hội phong kiến-một xã hộicoi thường phụ nữ và luôn bị lễ giáo trói buộc, không được hoạt động xã hội,không được học hành thi cử, chịu nhiều thiệt thòi cả ngoài xã hội cũng nhưtrong gia đình. Chính vì vậy, người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnhtrong cuộc sống mà còn đau khổ trong đường tình duyên.

Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trongđường tình duyên, 2 lần làm lẽ nhưng cả 2 lần đều ngắn ngủi nên bà rất hiểu vàđồng cảm với phận của những người phụ nữ không may mắn trong đường tình duyên.Đó là nổi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, ngườiphụ nữ chết chồngĐiều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyếtliệt xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng mà không ai dám lên tiếng. Hồ XuânHương vạch cho con người thấy thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì mườihọa mới được gần chồng. Họ là thứ làm mướn không công và để thỏa ham muốn nhụcdục của bọn nhà giàu. Nhà thơ vạch trần bản chất xấu xa của chế độ đa thê phongkiến.

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Ai cũng biết, cuộc đời cũ, đau khổ chẳngphải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn làphụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. HồXuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằngkinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằngtiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Vì vậy, thơ Xuân Hươngluôn là tiếng kêu xé lòng của những người con gái nhẹ dạ.

Trong bài Không chồng mà chửa,nhà thơ lại viết về một cảnh ngộ của một người phụ nữ, cảnh ngộ những cô gáikhông may có may có mang với người yêu của mình nhưng không được xã hội chấpnhận.

Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niếm chàng có biết chăng chàng

..
Khôngcó, nhưng mà có mới ngoan Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã nhấnmạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó vô tâm trước hậu quả đểlại cho người phụ nữ và tác giả đã đứng về phía cô gái mà dùng một ý của câu cadao:

Không chồng mà chửa mới ngoan
Cóchồng mà chửa thế gian sự thường

Không chỉ cảm thông với thân phận củangười làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa mà Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ họ,muốn an ủi họ, muốn dịu dàng đùa với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họtrở lại với cuộc sống bình thường:

Văngvẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nínđi kẻo thẹn với non sông
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)

Lúc thì đùanghịch nhưng rất thân tình:

Văngvẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thươngchồng nên mới khóc tì ti
(Bỡn bà lang khóc chồng)

Trong văn học phong kiến của ta hiếm cónhà thơ nào độc đáo mà nhân tình đến thế. Có thể nói từ một chỗ ý thức sâu sắcvề giá trị của người phụ nữ và cảnh ngộ ngang trái của họ trong xã hội phongkiến, Hồ Xuân Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối phong kiến quyết liệt,một con người đả kích gay gắt những kẻ đại diện cho giai cấp phong kiến thốngtrị cùng những gì chà đạp con người.

Ở bài tự tìnhsố III, tác giả lại viết:

Ngánnỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnhtình san sẻ tí con con

Sự sốngcủa đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, cònriêng mình thì vẫn cứ bất
hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít lại còn phải
chia ba sẻ bảy nữa.

Ðọc thơ bà,
người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như chưa một lầnnhận diện được hạnh phúc.

Tiếng nói phê phán, đã kích giai cấp phong kiếnthống trị

Trongvăn học Việt Namnữa cuối thế kỉ XVIII nữa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhânđạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của phụ nữ. Khôngphải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữbình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Cóthể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịchsử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy:những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châmbiếm sâu cay. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu nhiềuthiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách làngười phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo tam tòng.Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòihỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng kêu thương thất vọng. Đạidiện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình,kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích, tốcáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dântộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm

Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu nhưngtrong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bìnhquyền. Để muốn rằng: Họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn.Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vuakhi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ Xuân Hương với thân phận nữ nhi, chắc bàkhông có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể:

Hồnghồng má phấn duyên vì cậy
Chúadấu yêu vua một cái này

Nếu đối vớichúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn quan thị, nữsĩ đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng trướccái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi đổng, cười mỉa:

Đố ai biết đó vông hay chóc
Cònkẻ nào hay cuống với đầu

Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhấtlà bọn hiền nhân quân tử, bọn mô phạm phong kiến. Đối với quân tử, Xuânhương không chỉ chọn chân chúng trước bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắtchúng mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo lên đèo Ba uân Dội.
Bên cạnh những hiền nhân quân tử là đám nho sĩ dót nát, còn huênh hoang. XuânHương gọi chúng là phường lòi tói, ngẩn ngơ, xưng chị và đòi dạy chúng làmthơ.

Khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ

Sự dâmđảng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật:

Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vải nấp sau lưng cháy bảy bà.
Khi cảnh, khi tỉuu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.

Không nhữngthế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua.

Khen thay con tạo khéo khôn phàm
(Hang Thánh Hóa)

Qua thơXuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế diễu, đả kích. Bàdùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấpthống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ XuânHương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta nghe như có tiếng nấc bêntrong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà thơ X.Diệu thay cho lời kết của mình:những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng cảlời nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng nhưnhững nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nướcmắt mặc cái áo trào phúng đó thôi

Thảo luận cho bài: Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương