Thuốc nhuận tràng cho trẻ sơ sinh

20/11/2015

Cha mẹ không nên quá lo lắng nếu trẻ bị táo bón kéo dài vì vẫn có thuốc điều trị chứng táo bón. Tuy nhiên kết quả thường không đến sớm như gia đình mong muốn. Hãy kiên trì tuân thủ các hướng dẫn của bác sĩ.

[Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet].

Làm rỗng đại tràng 

Bước đầu tiên trong điều trị táo bón là làm rỗng đại tràng. Bác sĩ có thể chỉ định một trong các biện pháp sau:

– Thụt hậu môn: bơm nước vào trực tràng, tạo cơn mót tiêu.

– Thuốc đút hậu môn: kích thích ruột đẩy phân ra ngoài.

– Thuốc nhuận tràng: giúp rửa đại tràng và trực tràng.

– Dùng tay tháo phân: đôi khi nhân viên y tế phải dùng tay để loại bỏ những khối phân lớn và quá cứng.

Thuốc chống táo bón 

Bác sĩ có thể kê đơn thuốc chống táo bón để giúp bé đi ngoài bình thường trở lại. Thuốc sử dụng hàng ngày giúp trẻ táo bón đi tiêu phân mềm, không đau, phục hồi thói quen vệ sinh đều đặn. Mục tiêu là giúp bé đi tiêu hàng ngày, không bị cảm giác khó chịu, không bị són phân ra quần. Cần dùng thuốc đều đặn trong một thời gian dài [thường là 3-6 tháng] mới mang lại kết quả.

Nhiều cha mẹ lo rằng trẻ sẽ quen với thuốc chống táo bón và không còn nhu cầu đi tiêu tự nhiên nữa, hoặc sợ thuốc làm cơ thể mất đi nhiều chất dinh dưỡng quan trọng. Nếu được sử dụng đúng cách, điều này sẽ không xảy ra.

*Lưu ý khi dùng thuốc chống táo bón:

  • Cho trẻ uống thuốc vào cùng giờ mỗi ngày.
  • Thường có thể trộn thuốc với nước lọc, nước quả.
  • Cha mẹ nên tìm hiểu liều thuốc tối thiểu và tối đa để có thể điều chỉnh kịp thời nếu cần, trước khi đi khám lại.

Các loại thuốc chống táo bón có trên thị trường:

  1. Nhóm thuốc tạo khối [bổ sung chất xơ]

Nhóm thuốc này chứa các chất xơ [từ vỏ, hạt, củ]. Khi uống vào thuốc sẽ hút nước từ ruột, làm cho phân mềm và lớn hơn, tạo nhu động ruột bình thường để đẩy phân.

Ví dụ Methylcellulose [biệt dược – Citrucel]. Thuốc này thường phát huy tác dụng sau 1-3 ngày. Vì thuốc hút nhiều nước nên phải đảm bảo cho trẻ uống đủ nước như chỉ dẫn.

Loại thuốc này không thúc đẩy nhu động ruột nhưng giúp nước thấm vào khối phân, làm phân mềm hơn và có thể tống ra ngoài mà không cần rặn, nhờ đó trẻ đi tiêu dễ dàng hơn.

Ví dụ parafin lỏng, docusate [Nogarlax]. Parafin lỏng có thể để lại vết dầu trên quần lót, nhất là nếu dùng lâu với liều cao.

  1. Nhóm thuốc nhuận tràng thẩm thấu

Thuốc có tác dụng giảm hấp thu nước ở thành ruột, tăng lượng nước trong lòng ruột, giúp phân mềm hơn và dễ tống ra ngoài.

Ví dụ: – Lactulose [Duphalac], sorbitol [Sorbitol, Microlax].

– Macrogol /Polyethylene glycol [Forlax], glycerin [Rectiofar bơm hậu môn].

Polyethylene glycol thường phát huy tác dụng sau 24 giờ nhưng đôi khi phải mất vài ngày.

  1. Nhóm thuốc nhuận tràng kích thích

Nhóm này có tác dụng kích thích để cơ đại tràng co bóp, làm tăng nhu động ruột, khiến phân được đẩy ra ngoài nhanh hơn. Thuốc cần 8-12 giờ để phát huy tác dụng, có thể dùng đường uống hoặc đường hậu môn vì thuốc tác dụng trực tiếp lên thành ruột.

Ví dụ:  Bisacodyl [Dulcolax]. Nhóm này thường chỉ được chỉ định khi các nhóm ở trên không có hiệu quả.
Khi nào cần đưa trẻ đi khám bác sĩ?

Nên đưa trẻ đi khám nếu táo bón dai dẳng, đi ngoài ra máu, trẻ mệt mỏi chán ăn, bụng chướng, đau bụng hoặc thấy bé bị căng thẳng với việc đi tiêu.

 8 mẹo nhỏ giúp cha mẹ đối phó với trẻ bị táo bón 

  1. Củng cố lòng tự tin của trẻ

Khen ngợi bé vì những tiến bộ nhỏ nhất, chẳng hạn khen khi bé chịu uống thuốc đúng giờ hay ngồi bô sau bữa ăn.

Cha mẹ cần đề ra quy định cụ thể, giúp trẻ hiểu mình cần làm gì để chiến thắng táo bón: phải uống thuốc đều đặn, ăn lành mạnh, uống đủ nước, lắng nghe tín hiệu của cơ thể, dành thời gian đi tiêu mỗi ngày. Đôi khi những phần thưởng nho nhỏ có thể phát huy tác dụng lớn, một buổi đi chơi công viên hay một đồ chơi xinh xắn có thể giúp bé hào hứng hơn trong việc tuân thủ các quy định của cha mẹ.

3. Dành thời gian cho bé đi vệ sinh

Đảm bảo bé có đủ thời gian mỗi ngày để đi vệ sinh mà không phải vội vàng. Điều này có thể đồng nghĩa với việc bố mẹ phải dậy sớm thêm 10 phút mỗi sáng hoặc lên kế hoạch để có 10  phút rỗi rãi sau giờ ăn tối. Chỉ nên cho trẻ ngồi bô hoặc bồn cầu 5-10 phút. Với trẻ nhỏ, cha mẹ có thể phải ngồi cạnh và trò chuyện với con trong nhà vệ sinh và giúp con lau rửa sau khi bé hoàn thành nhiệm vụ.

Khi bạn có nhu cầu đi tiêu, hãy thông báo cho con và đi ngay vào nhà vệ sinh để làm gương.

Duy trì nếp sinh hoạt đều đặn là điều quan trọng, tuy nhiên đôi khi thái độ mềm dẻo cũng sẽ tỏ ra rất hữu ích.
6.Tăng cường giao tiếp
Nếu bé đã đủ lớn, hãy trò chuyện thường xuyên về những tiến bộ của con và dùng lời lẽ đơn giản giải thích về ảnh hưởng tích cực của thuốc, chế độ ăn lành mạnh và vận động tích cực. Trẻ càng hiểu rõ những vấn đề này bao nhiêu thì càng dễ phối hợp bấy nhiêu.

  1. Bày tỏ tình yêu vô điều kiện của bạn

Đừng bao giờ trừng phạt hay chế diễu con vì tội ị đùn hay quên không đi tiêu. Cố gắng đừng nổi cáu khi nhu cầu đi tiêu của con làm xáo trộn kế hoạch trong ngày của bạn. Bé cần biết bạn vẫn yêu và ủng hộ con ngay cả khi bé thất bại. Những người thân khác trong gia đình và giáo viên ở trường học cũng cần giữ thái độ tương tự.

  1. Tìm sự hỗ trợ từ người thân    

Đối phó với trẻ bị táo bón là việc làm không mấy dễ chịu, chuyện này có thể khiến bạn nổi giận hoặc xấu hổ. Đi tiêu là nhu cầu của tất cả chúng ta và người nào trong cuộc đời mình cũng có lúc phải vật lộn với vấn đề này. Hãy trò chuyện cởi mở với người thân trong gia đình, với bạn bè, chia sẻ những khó khăn mà bạn và bé đang trải qua. Bạn rất cần sự thông cảm và hỗ trợ của họ. Hãy bình tĩnh, cùng với thời gian mọi chuyện sẽ trở nên ổn thỏa.

BS Trần Thu Thủy 

1. Khái niệm và nguyên nhân


Táo bón là tình trạng thường gặp ở trẻ em. Táo bón là sự giảm bài xuất phân bình thường, kèm theo khó rặn và có cảm giác đau đau khi bài xuất do phân rắn hoặc quá to. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng táo bón ở trẻ gồm hai nguyên nhân chính sau:
- Nguyên nhân thực thể [khoảng 5 – 10% ở trẻ] bao gồm các vấn đề về cường giáp, bệnh thần kinh cơ ổ bụng, ở ruột…
- Nguyên nhân chức năng [khoảng 90 – 95%] bao gồm:
     1. Việc trẻ nhịn không chịu đi ngoài là nguyên nhân thường gặp nhất. Khi trẻ càng nhịn thì phân bị lưu giữ ở trong ruột càng lâu, bị tái hấp thu nước trở nên rắn, và to khiến cho trẻ càng gặp khó khăn khi đi ngoài hậu quả là trẻ có thể bị táo bón mạn tính.
     2. Trẻ lười vận động khiến nhu động ruột hoạt động kém.
     3. Trẻ không uống đủ lượng nước và chế độ ăn thiếu chất xơ. Chất xơ từ những loại rau, củ quả góp phần làm tăng thể tích cho phân, làm cho phân mềm hơn.
     4. Sử dụng một số loại thuốc [ví dụ: thuốc opium, thuốc giảm ho, kháng acid có Al3+, thuốc kháng cholinergic, thuốc điều trị tiêu chảy …] khiến phân trở nên khô rắn và rất khó di chuyển.
     5. Rối loạn cảm xúc [Vd: không khí gia đình căng thẳng, cha mẹ li hôn, có em bé mới, bị bạn bè trêu chọc] có thể dẫn đến làm trẻ bị táo bón.
     6. Trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ thường bị táo bón nếu được cho ăn thức ăn đặc một cách đột ngột, đặc biệt là ở những trẻ lần đầu tiên ăn thức ăn đặc.
     7. Táo bón cũng có thể xảy ra khi bé cai sữa mẹ. Nguyên do là việc cai sữa đôi khi khiến bé bị mất nguồn cung cấp nước. Thành phần protein khác nhau trong sữa công thức có thể là nguyên nhân gây táo bón ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Trẻ dùng sữa công thức với lượng nhiều và bị táo bón thường có phân xanh và cứng.


2. Phân loại và cơ chế


Hiện nay có khoảng 5 nhóm thuốc điều trị táo bón được sử dụng:
     1. Thuốc nhuận tràng tạo khối: là polysacarid thiên nhiên hoặc tổng hợp. Khi hút nước, các chất này tạo thành 1 khối gel làm mềm phân và kích thích nhu động ruột. Khởi đầu tác dụng chậm [1 – 3 ngày] nên chủ yếu để phòng ngừa. Sử dụng để điều trị hữu ích cho phân cứng và nhỏ. Thuốc được sử dụng trên cả bệnh nhân viêm ruột, hội chứng ruột kích thích và trẻ sơ sinh. Một số tác dụng phụ có thể xảy ra: đầy hơi, co thắt dạ dày và tiêu chảy. Lưu ý phải uống với nhiều nước tránh bị táo bón ngược và tắc nghẽn ruột, không nên uống trước khi đi ngủ. Ví dụ: Inuline, fructo oligosaccharid, glacto oligosaccharid [1].
     2. Nhuận tràng làm mềm là muối của docusat, các chế phẩm này chứa lượng lớn muối calci, natri và kali. Docusat là chất diện hoạt loại anion làm giảm sức căng bề mặt của khối phân nên nước dễ thấm vào khối phân. Thuốc làm tăng bài tiết dịch, chất điện giải vào ruột non và ruột già. Thuốc ít hiệu quả hơn các thuốc khác nên ngày nay ít sử dụng. Ví dụ: Docusat natri, Docusat kali
     3.  Nhuận tràng làm trơn: dầu khoáng. Thuốc chủ yếu tác dụng tại ruột già làm khối phân dễ di chuyển. Thuốc không bị chuyển hóa và hiệu quả ở bệnh nhân bị nứt hậu môn và làm giảm căng thẳng do đại tiện cho người tim mạch. Thuốc làm giảm hấp thu vitamin tan trong dầu [A, D, E, K]… Lưu ý: không uống thuốc lúc đi ngủ hay ở tư thế nằm do thuốc có thể sẽ hít vào phổi gây viêm phổi “dạng lipid”. Không nên uống thuốc vào lúc đói.
     4. Nhuận tràng kích thích: các thuốc này kích thích đầu mút thần kinh của niêm mạc kết tràng làm tăng nhu động ruột. Thuốc được sử dụng điều trị táo bón và làm sạch ruột chuẩn bị cho phẫu thuật. Thuốc có nhiều tác dụng phụ như đau bụng, rối loạn nước và chất điện giải - hạ kali huyết, mất trương lực ruột khi sử dụng lâu dài. Lưu ý thuốc nhuận tràng kích thích không nên dùng thường xuyên.
     5. Thuốc nhuận tràng thẩm thấu: được sử dụng thường xuyên và rộng rãi nhất. Người ta chia thành 3 nhóm nhỏ: muối nhuận tràng [muối Mg2+, Na+,..], các poly – alcohol không hấp thu [lactoluse, sorbitol, glycerin] và polyethylen glycol [PEG3350]. Thuốc là các dung dịch ưu trương nên kéo nước vào lòng ruột nhờ tác dụng thẩm thấu dẫn đến làm tăng nhu động ruột. Có 2 dạng bào chế, bơm trực tràng/hậu môn khởi phát tác dụng nhanh: 15 – 30 phút và đường uống tác dụng chậm hơn [1 – 4 giờ]. Trong nhóm này phải kể đến lactoluse và macrogol. Cả 2 đều được sử dụng để điều trị táo bón mạn tính, thỉnh thoảng đi phân không đều, ngoài ra lactoluse được chỉ định cho bệnh lý não do gan.

LACTULOSE:


Là disaccharid tổng hợp được dùng khá phổ biến, thuốc không bị hấp thu qua màng ở ruột do ruột không có men ly giải disaccharid. Nhưng khi tới trực tràng, vi khuẩn sẽ phân giải disaccharid, chúng bị “lên men” thành nước, CO2, NH4 + và các acid chuỗi ngắn [acid lactic, acid formic, acid acetic]. Môi trường acid có tác dụng thẩm thấu, hút nước làm mềm phân  kích thích nhu động ruột tống đẩy phân ra ngoài. Các acid được tạo ra sau khi bị phân giải bởi vi khuẩn sẽ ức chế NH3 từ ruột vào máu, đồng thời kéo NH3 từ máu vào ruột nhờ phản ứng NH3 + H+  NH4+ và đào thải ra ngoài, nhờ cơ chế này lactulose làm giảm NH3 huyết hỗ trợ điều trị bệnh lý não gan. Thời gian tác dụng của thuốc là khoảng 1 – 3 ngày.
Khi sử dụng lactulose có thể khiến trẻ cảm giác đầy hơi, chướng bụng vì khí được sinh ra sau quá trình lên men, ngoài ra thuốc có nguy cơ rối loạn cân bằng nước và điện giải nếu sử dụng thuốc lâu dài.
Chống chỉ định: Bệnh nhân tắc ruột, bệnh nhân không dung nạp galactose, fructose.


MACROGOL:


Là các chuỗi polyethylen glycol [PEG] trơ về mặt sinh học nên không lên men, không chuyển hóa và không bị hấp thu, được thải trừ nguyên vẹn ra khỏi cơ thể. Macrogol liên kết với các phân tử nước bằng liên kết hydro, khi đến trực tràng sẽ làm tăng thể tích khối phân, làm mềm phân và kích thích nhu động ruột tổng đẩy phân ra ngoài. Macrogol 3350 khá an toàn và không giảm tác dụng khi sử dụng kéo dài. Thời gian tác dụng của thuốc 1 – 3 giờ.
Khác với lactulose hút nước trong cơ thể vào lòng ruột, macrogol chỉ sử dụng lượng nước ban đầu đưa vào khi pha cùng với thuốc và lượng nước sẵn có trong ruột nên không gây rối loạn điện giải, không ảnh hưởng đến hệ vi sinh trong ruột và ít gây nguy cơ đầy bụng, khó tiêu.
Chống chỉ định: Bệnh nhân thủng ruột hoặc tắc nghẽn ruột, tình trạng viêm nặng của đường tiêu hóa [ví dụ: Crohn].
So sánh hiệu quả và an toàn thuốc nhuận tràng theo tác giả TS. BS W Voskuijl và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên có kiểm soát trên 100 bệnh nhân nhi [từ 6 tháng tới 15 tuổi] bị táo bón trong 8 tuần. Bệnh nhân dưới 6 tuổi được sử dụng macrogol 3350/PEG 3350 [2,95g/gói]  hoặc  lactulose  [6g/gói]; Trẻ > 6 tuổi uống 2 gói/ngày. Kết quả cho thấy, tỷ lệ điều trị thành công ở nhóm Macrogol [56%] cao hơn đáng kể so với nhóm sử dụng lactulose [29%]: gia tăng đáng kể số lần đại tiện; giảm tần số đi đại tiện không tự chủ,…[2]. Một nghiên cứu khác của tác giả Heather Lee‐ Robichaud và cộng sự năm 2010 thực hiện phân tích tổng hợp 10 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, tổng cộng 868 người tham gia và được tiến hành từ năm 1997 đến năm 2007. Các thử nghiệm được thực hiện ở 6 quốc gia khác nhau. Độ tuổi 3 tháng đến 70 tuổi. Tất cả thử nghiệm đều cho thấy rằng PEG cho tần suất đi phân mỗi tuần cao hơn khi so sánh với lactulose. Hai thử nghiệm báo cáo dạng phân trên Thang phân Bristol, cả hai nghiên cứu đều ghi nhận Điểm phân Bristol cao hơn khi sử dụng PEG so với lactulose [phân mềm hơn]. Ba thử nghiệm báo cáo giảm đau bụng. Kết luận macrogol hiệu quả hơn lactulose về số lần đại tiện mỗi tuần, riêng ở trẻ em tác dụng phụ đau bụng của macrogol giảm so với lactoluse. Macrogol nên được ưu tiên sử dụng hơn lactulose trong điều trị táo bón mãn tính [3].


3.  Một số lưu ý khi sử dụng thuốc táo bón ở trẻ em:


Ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ, chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết, do có nguy cơ làm mất phản xạ đi cầu bình thường ở trẻ.
Sử dụng liều thấp có tác dụng nhuận tràng, liều cao có tác dụng tẩy xổ. Uống với nhiều nước để tránh mất nước.
Nên uống lúc đói để tăng hiệu quả:
- Lactoluse uống lúc đói.
- Macrogol nên uống cách xa với những thuốc khác 2 giờ do thuốc tương tác làm giảm hấp thu các thuốc dùng đồng thời.
Khi sử dụng các muối vô cơ [muối Mg2+] nên bổ sung nước và các chất điện giải [oresol] để tránh tình trạng mất nước do thẩm thấu quá mức.
Đối với điều trị táo bón mạn tính:
Điều trị duy trì: khuyến cáo sau khi trẻ đi tiêu thường xuyên [>= 3 lần/tuần], sau đó giảm liều, tùy vào mức độ, tình trạng táo bón, thời gian điều trị có thể kéo dài đến 6 tháng.
Không ngừng thuốc đột ngột dẫn đến táo bón dễ bị trở lại, điều trị khó khăn hơn.


Tài liệu tham khảo:
1. Phác đồ Nhi đồng Đồng Nai 2018.
2. Trần Thị Thu Hằng [2013]. Sách dược lực học. NXB Phương Đông.
3.[1].//www.webmd.com/vitamins/ai/ingredientmono-450/fructo-oligosaccharides-fos

4. [2].W Voskuliji, “ PEG 3350 [Transipeg] versus lactulose in the treatment of childhood functional constipation: a double blind, randomised, controlled, multicentre trial”, BMJ journals. DOI: 10.1136/gut.2004.043620
5. [3]. Heather Lee-Robichaud, “Lactulose versus Polyethylene Glycol for Chronic Constipation”, Cochrane Library. DOI: 10.1002/14651858.CD007570.pub2

Video liên quan

Chủ Đề