Tìm hiểu thị trường chứng khoán Mỹ

Tìm hiểu về thị trường chứng khoán MỹVASC, 27/08/2002, 15h45Xin giới thiệu cùng bạn đọc những bài viết về thị trường chứng khoán Mỹ của Tiến sĩ Tôn Thất Đán, chuyên gia tư vấn kinh tế quốc tế.Tiến sĩ Tôn Thất Đán, tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học danh tiếng Paris - Sorbone (Pháp), đồng thời cũng là cử nhân luật chuyên ngành kinh tế chính trị, quan hệ đối ngoại, quản trị kinh doanh> Tiến sĩ đã từng tham gia giảng dạy tại Đại học Moncton, Đại học Laval, Đại học Montreal (Canada) và tại các trường đại học khác ở nhiều nước. Tiến sĩ đã giữ các vị trí quan trọng trong giới quản trị quỹ đầu tư tại New Brunswick (Canada), đặc biệt là Quỹ NB Investment Management Corporation với hơn 6 tỷ USD tài sản.Sau nhiều năm nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, Tiến sĩ Tôn Thất Đán đã viết cho độc giả những kiến thức và kinh nghiệm quý báu về thị trường chứng khoán. Những bài viết này của Tiến sĩ Tôn Thất Đán sẽ cung cấp cho độc giả những nguyên tắc và hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán Mỹ - thị trường tiêu biểu, lớn nhất và điển hình cho tất cả các thị trường chứng khoán.Thị trường chứng khoán Mỹ: Phản ánh của tiến bộ kinh tếVASC, 03/08/2002, 14h15Thị trường chứng khoán là một mạng lưới người mua và người bán cổ phần sở hữu công ty. Tại Mỹ có 3 thị trường chứng khoán chính là thị trường chứng khoán New York, thị trường chứng khoán Amex và thị trờng chứng khoán NASDAQ (Hiệp hội những nhà môi giới kinh doanh chứng khoán yết giá tự động). Cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm giám sát và hoạch định chính sách liên quan đến các giao dịch chứng khoán là SEC (Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch).Thông thường, thị trường chứng khoán là một địa điểm giao dịch, nơi người bán và người mua cổ phiếu có thể một cách trược tiếp thương lượng mua bán với nhau, như thị trường Wall Street, tại New York; thị trường Bay Street, ở Toronto, Canada; tại thị trường chứng khoán London, thị trường chứng khoán Paris và tại hàng loạt địa điểm khác trên thế giới.Ngày nay, với sự phát triển của các phương tiện liên lạc hiện đại, người bán và người mua không cần gặp nhau tại một địa điểm cụ thể, họ có thể tiến hành mua bán trực tuyến (online), như trên thị trường NASDAQ, người bán và người mua có thể tiến hành các giao dịch trực tuyến. Thị trường chứng khoán là một thể thống đa dạng bởi các thành phần tham gia; nó có thể là thị trường phức tạp nhất hoặc có thể hoạt động phi lý nhất, tuỳ theo trí tưởng tượng của con người. Lý do là thị trường chứng khoán là sự phản ánh hành vi của những người tham gia mua bán cổ phiếu mà quyết định của họ ảnh hưởng đến mức độ của hoạt động kinh tế.Người bán và người mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán hành động chủ yếu dựa vào dự đoán về thu nhập tương lai của những cổ phiếu được niêm yết và giao dịch trên một thị trường chứng khoán nhất định mỗi ngày. Khi dự đoán về thu nhập tăng giảm, giá trị cổ phiếu cũng biến động theo.Nhìn chung, xét về mặt dài hạn, thị trường chứng khoán có xu hướng trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế quốc dân. Nếu nền kinh tế quốc dân tăng trưởng và hứa hẹn tiềm năng, giá cổ phiếu tăng và ngược lại nếu nền kinh tế trì trệ, cổ phiếu có xu hướng sụt giá.Những nhà quản lý những khoản tiền khổng lồ, cũng như những nhà quản lý những quỹ trợ cấp, quỹ tương hỗ với hàng trăm tỷ USD trong tay thực sự có thể có tác động đáng kể đến mức giá cổ phiếu từng ngày. Những công ty lớn tham gia vào thị trường vốn tìm kiếm những khoản đầu tư mới cũng có thể tác động đến giá cổ phiếu. Tuy nhiên, về ngắn hạn, có thể không có sự liên hệ giữa hiện trạng kinh tế và mức giá chung của cổ phiếu. Trong thực tế, giá chứng khoán thường hay rất bất ổn. Nhưng thị trường chứng khoán trong dài hạn có khả năng cung cấp những tín hiệu về tương lai nền kinh tế.Dự đoán và những yếu tố ngắn hạn cũng chính là những nhân tố quyết định giá cả một cổ phiếu. Dự đoán và thực tế không nhất thiết là một. Thu nhập của một công ty là một chuyện nhưng dự đoán của những người tham gia thị trường chứng khoán lại là chuyện khác.Tuy nhiên, cho dù bất ổn thế nào, thị trường chứng khoán vẫn là một cơ chế kỳ hạn phức tạp và hữu ích. Một nhà quan sát kinh tế ưu tú không thể bỏ qua mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Thực tế, những mô hình kinh tế của các nền công nghiệp hiện đại đều bao gồm ít nhất 1 chỉ số chứng khoán với tư cách là một chỉ số kinh tế dự đoán (leading economic indicator). Tại Mỹ, chỉ số Standard and Poor 500 được sử dụng như là một chỉ số dự đoán hàng đầu của Chính phủ nước này. Tại Canada, chỉ số TSE 300 của thị trường chứng khoán Toronto cũng được sử dụng như một chỉ số dự đoán chính thức của nền kinh tế Canada.Thị trường chứng khoán là kết quả cuối cùng của quyết định chung giữa người bán và người mua cổ phiếu, ảnh hưởng mức độ của các hoạt động kinh tế. Ngoài ra, còn có mối liên hệ giữa biến động trong đầu tư và biến động trên thị trường chứng khoán. Giá cổ phiếu phản ánh những cơ hội của nền kinh tế đối với đầu tư. Giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi nhuận trong nền kinh tế. Điều ngược lại cũng đúng, nghĩa là khi cơ hội đầu tư giảm hoặc bị đe dọa, hoặc được nhận xét như vậy, giá chứng khoán có xu hướng giảm. Số liệu công bố hàng quý của Mỹ cho thấy, sự biến động theo năm của chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones phản ánh những thay đổi hàng năm trong tổng sản phẩm quốc gia thực tế. Nhà kinh tế Mỹ đoạt giải Nobel, James Tobin, đã đề xuất là, các công ty nên đưa ra quyết định đầu tư dựa vào một tỷ lệ (sau này nổi tiếng là chỉ số q của Tobin) được định nghĩa là kết quả của việc định giá của thị trường chứng khoán về nguồn vốn hiện tại so với chi phí thay thế của nguốn vốn này.q = Giá trị thị trường của nguồn vốn hiện tại/Chi phí thay thế của nguồn vốn hiện tạiTrong công thức trên của Tobin, giá trị thị trường của nguồn vốn hiện tại do thị trường chứng khoán quyết định trong khi chi phí thay thế của nguồn vốn hiện tại là giá của nguồn vốn nếu nó được bán đi trong ngày hôm nay.Đầu tư nên dựa vào việc so sánh giá trị q với 1. Nếu q lớn hơn 1, thị trường chứng khoán định giá nguồn vốn cao hơn chi phí thay thế của nó. Trong trường hợp này, các nhà quản lý có thể tăng giá trị cổ phiếu bằng cách mua thêm vốn, đào tạo nhân viên mới, mua thiết bị mới, mua thêm nhà máy... bằng cách tăng cường đầu tư. Nguyên do là vì thị trường đánh giá rất cao sinh họat do thành lập vốn đầu tư hiện hửu, so với số tiền chi phí đầu tư hiên tại nhằm đem lại lợi nhuận tương lai. Ngược lại, nếu giá trị của q nhỏ hơn 1, tử số nhỏ hơn giá trị của mẫu số, tức là hiện nay thị trường đánh giá vốn hiện hửu nhỏ hơn chi phí nhằm thay thế số vốn đó. Trong trường hợp cụ thể này, đầu tư sẽ không được khuyến khích. Bởi vì nếu nhiệm vụ chính của nhà quản lý là tăng giá trị của công ty, nhà quản lý ấy sẽ không nhận thấy một nhân tố kích thích nào để thay thế nguồn vốn hiện tại khi đã khấu hao hết. Chúng ta cũng biết rằng, đầu tư là động cơ quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế dài hạn. Trong khi đó, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc gia phụ thuộc vào mức độ đầu tư và tiêu dùng.Tại sao thị trường chứng khoán lại bất ổn?Thực tế, về ngắn hạn, thị trường này có thể bất ổn và có vẻ hoạt động rất phi lý. Nguyên nhân, một mặt là mỗi người mua đều cần một người bán để tiến hành giao dịch, mỗi người bán lại cần một ngời mua để hoàn thành giao dịch. Mặt khác, thông tin mới trên thị trường và cách thức mà con người diễn giải chúng có thể thay đổi dự đoán của người bán và người mua.Chúng ta cần thiết phải có hai quan điểm khác nhau về một loại chứng khoán được mua và bán, hoặc ít nhất hai nhu cầu khác nhau, một nhu cầu tung tiền mặt để đầu tư (mua chứng khoán) của người mua và một nhu cầu bán chứng khoán để lấy tiền mặt của một cổ đông. Đó cũng là một lý do, tại sao thị trường chứng khoán có thể bất ổn. Dự đoán tác động đến giá chứng khoán nhưng dự đoán nào, sớm hay muộn cũng phải được kiểm chứng bằng thực tế; trong khi đó, dự đoán hiện tại có thể đẩy giá chứng khoán chệch hướng. Ngoài ra, dự đoán được hình thành và điều chỉnh theo dòng thông tin liên tục cập nhật trên thị trường. Nếu mọi người đều tin rằng, một công ty sắp sửa làm ăn phát đạt và nếu giả định này lan rộng trong công chúng, khó có thể tìm thấy một người bán cổ phiếu của công ty, trừ khi người mua trả giá rất cao. Điều ngược lại cũng không sai khi dự đoán có tác động tiêu cực.Tuy nhiên, về dài hạn, dự đoán nhất thiết phải đáp ứng được với thực tế. Vì vậy, trong khi thị trường chứng khoán có thể là cơ chế dự đoán trước sự kiện kinh tế trong tương lai thì trong ngắn hạn, nó lại trở nên vô cùng biến động. Khi một người quyết định mua cổ phiếu, người này dự đoán sẽ thu lợi nhuận từ khoản tiền người ấy bỏ ra, dưới dạng lên giá vốn hoặc dưới dạng hưởng nhận cổ tức (phần lợi nhuận mà công ty chia cho các cổ đông), hoặc cả hai. Cả hai trường hợp sẽ chỉ xảy ra trong tương lai.Người mua cổ phiếu là người mong đợi; họ không chỉ trông chờ ở nơi giá trị hiện tại của cổ phiếu mà chủ yếu là mong đợi thu nhập tương lai từ cổ phiếu này sinh ra. Một cổ phiếu có thể có giá trị hiện tại cao hơn nếu công ty chia tách ra từng mảnh và được bán đi như những phần tài sản riêng biệt; nhưng giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu đó có thể thấp hơn nhiều so với giá trị của tổng tài sản, nếu những tài sản này được ngay lập tức bán cùng một lúc. Đó là trường hợp của những công ty sản xuất ô tô Mỹ cuối những năm 1970 sau cuộc khủng hoảng năng lượng. Giá cổ phiếu của một công ty như Chrysler đã được bán trên thị trường với giá bằng 1/3 giá trị của nó, nếu tính theo giá trị trong trương hợp khi công ty nầy được chia nhỏ và bán đấu giá ngay lúc ấy.Khi thông tin thị trường được cập nhật hàng ngày hoặc thậm chí từng phút trong ngày, dự đoán được điều chỉnh theo tính sẵn có của thông tin. Vì vậy, nếu tất cả người tham gia trong thị trường được thông tin hoàn hảo và đều nhạy bén trong việc dự đoán xu hướng của mỗi công ty trong tương lai thì thị trường chứng khoán sẽ trở thành một cơ chế dự đoán hoàn hảo. Tuy nhiên, thực tế không hoàn thiện như vậy.Thị trường chứng khoán cho phép người mua và người bán phương tiện sản xuất có thể thuận tiện liên lạc với nhau. Các công ty hoặc các cá nhân cần vốn để đầu tư cho kinh doanh và những người tiết kiệm không biết làm gì với khoản tiền của mình cần một địa điểm và một mạng lưới tổ chức tốt để gặp gỡ vay mượn. Thị trường chứng khoán là câu trả lời cho nhu cầu này.Tuy nhiên, để thu hút người tham gia một cách hiệu quả, chúng ta cần một tổ chức danh tiếng và hoạt động tốt. Sự thống nhất, sự tín nhiệm của người tham gia và lòng tin công chúng là những ưu tiên hàng đầu của bất kỳ thị trường thành công và nổi tiếng nào.Chúng ta cũng cần tính thanh khoản và chiều sâu của một thị trường chứng khoán hoạt động với một công suất cao. Tính thanh khoản, nghĩa là nếu người mua một cổ phiếu XYZ muốn mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, người bán loại cổ phiếu này luôn sẵn sàng tiến hành giao dịch này. Sự sẵn sàng, trong thời buổi hiện đại, nghĩa là ngay giây phút mà nhu cầu phát sinh, trong cùng ngày, chứ không phải ngày mai hay một tuần tới.Một cổ phiếu có thể được bán và mua dễ dàng trên thị trường chứng khoán được coi là có tính thanh khoản. Một thị trường chứng khoán mà tất cả các giao dịch đều có tính thanh khoản được ưa chuộng hơn nhiều, so với một thị trường chứng khoán ít giao dịch, hoặc không có giao dịch nào. Nguyên nhân là thị trường chứng khoán là một cơ chế mà người có nguồn lực tài chính có thể bình thản cho vay để đầu tư dài hạn mà không cần sự cam đoan hoàn trả vốn trong tương lai nhưng vẫn có thể thay đổi ý kiến và lấy lại tiền bất kỳ lúc nào. Thị trường chứng khoán là nơi mà những nhu cầu như thế này được thương lượng. Những khoản vốn lớn có thể được huy động để đầu tư trong thời gian dài với khả năng hoàn trả lại người cho vay bất kỳ thời điểm nào họ mong muốn.Một ưu điểm nữa của thị trường chứng khoán danh tiếng là chiều sâu của nó. Điều này có nghĩa là nếu một người cần mua hoặc bán một khối lượng lớn cổ phiếu XYZ, người ấy có thể thực hiện trong vài phút bằng cách gọi điện cho nhà môi giới, đặt lệnh và nhận một báo cáo rằng lệnh đã được thực hiện, thông báo số lượng cổ phiếu được mua, hoặc bán tại một mức giá và thời điểm chính xác. Nếu giao dịch này được thực hiện trực tuyến, lệnh sẽ được thực hiện trong vài giây. Thực tế, hàng triệu cổ phiếu và hàng tỷ USD có thể được giao dịch trong mỗi phút trên thị trường New York, hoặc NASDAQ.Tính bất ổn trên thị trường chứng khoán và hiệu ứng sòng bạcDo thị trường chứng khoán cần tính thanh khoản và chiều sâu, những công ty danh tiếng niêm yết cổ phiếu trên một thị trường chứng khoán danh tiếng cần phải có những chuyên gia có nhiệm vụ đảm bảo rằng bất kỳ lệnh bán hoặc mua nào, một vài cổ phiếu hay hàng triệu cổ phiếu đều được thực hiện ngay lập tức. Và điều đó cũng có nghĩa rằng ngay khi giây lệnh chạm sàn giao dịch chứng khoán, lệnh đó ngay lập tức được thực hiện và báo cáo.Thực tế là giá chứng khoán thay đổi trong mỗi giao dịch trong ngày, với một khối lượng lớn giao dịch là cơ hội kiếm lời của các nhà hoạt động chứng khoán có thông tin đầy đủ. Thực tế này cũng làm nảy sinh tư tưởng cờ bạc trong thị trường chứng khoán. Do đó cũng không quá cường điệu khi nói rằng, những biến động ngắn hạn của thị trường chứng khoán cũng giống như một hình thức đánh bạc.Đầu cơ có vẻ như là bản chất bất di bất dịch của một thị trường chứng khoán. Chừng nào đầu cơ có giới hạn, cũng giống như mức ô nhiễm thấp trong không khí mà chúng ta hàng ngày vẫn hít thở, nó sẽ không gây hại. Đầu cơ là một cách để chia sẻ rủi ro thị trường cho tất cả những người tham gia: các nhà đầu tư dài hạn, những nhà kinh doanh ngắn hạn và các nhà đầu cơ. Nhà đầu tư trong thị trường chứmg khoán, nói chung là người vạch ra kế hoạch thu lợi từ thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư dài hạn là người mua cổ phiếu bằng nguồn lực tài chính của mình trong một thời gian dài nhằm góp phần tạo ra của cải cho xã hội. Các nhà môi giới là người góp phần giúp thị trường hoạt động hiệu quả hơn, làm tăng tính thanh khoản và chiều sâu của thị trường này. Nhà đầu cơ là người chỉ lợi dụng những điểm yếu của thị trường và ít khi cung cấp một dịch vụ nào, trừ việc chia sẻ rủi ro mà nhờ đó sinh ra cơ hội kiếm lời.Một ví dụ của việc chia sẻ rủi ro trong việc quản lý Quỹ trợ cấp, là công cụ bình ổn giá cả cho những người sản xuất nông nghiệp: công cụ này có thể bảo vệ tài sản trong ngắn hạn trước biến động giá cả bằng cách đặt cược mức giá cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Ví dụ, Quỹ có thể cần 100 triệu USD trong vòng 12 tháng tới để trả lợi tức cho những người nghỉ hưu. Nếu quỹ thanh toán ngay số tiền này, quỹ sẽ mất đi khoản lợi nhuận trong 12 tháng, giả định là 9%. Nếu lãi suất ngắn hạn chỉ là 3%, quỹ sẽ mất đi 6% lãi. Các nhà đầu cơ có thể vào cuộc bằng việc đánh cuộc rằng giá trị cổ phiếu mà quỹ này nắm giữ sẽ tăng 9% như dự đoán. Khi đó, họ sẽ đảm bảo với quỹ về giá dự đoán của cổ phiếu trong12 tháng sắp đến. Vì vậy, các nhà đầu cơ có thể thu lợi hoặc thua lỗ, trong khi quỹ có thể yên tâm với mức giá cổ phiếu dự đoán trong 12 tháng tới.Một điểm khác biệt cơ bản giữa thị trường chứng khoán và một sòng bạc, là người chủ sòng bạc trong thưc tế là người quyết định tỷ lệ thắng. Vì thế chủ sòng bạc sẽ luôn luôn đặt mình vào thế thắng. Điều đó lý giải vì sao sòng bạc (casino) có khả năng xây những toà nhà lớn, thuê một đội ngũ nhân viên khổng lồ để thu hút người chơi và còn có thể kiếm những khoản lời kếch sù: nguyên tắc của casino luôn luôn là đặt thế thắng vào người chủ sòng bạc, vì vậy cho phép họ có thể thắng bạc so với số đông những kẻ chơi bạc khác.Một ví dụ cụ thể là quy luật của trò roulette trong các sòng bạc, trong đó kết quả dựa trên 38 số: từ 1 đến 36 cộng với số 0 và số 00. Người chơi có thể đặt cược vào một số nào đó, từ 1 đến 36 và số 0 và 00; nếu thắng, người ấy được trả gấp 36 lần số tiền đặc cược. Nhưng casino có 38 kết quả khác nhau, vì vậy, nếu người chơi đặt cược 1 USD vào mỗi số, người ấy sẽ mất 2 USD mỗi lần: lý do là chỉ lấy lại được 36 USD sau khi đã chi 38 USD.Có một cách để người chơi tăng tỷ lệ thắng bạc của mình, đó là giải pháp ''đai ghì đầu ngựa''. Nó đòi hỏi người chơi phải có trong tay một số lượng tiền lớn, để tăng xác suất thắng bạc. Nó đòi hỏi người chơi liên tiếp đặt cược vào một con số với một số tiền như nhau, cho đến khi người ấy đạt đến giới hạn tối đa thanh toán, khi đó sẽ tăng tỷ lệ đặt cược vào đúng con số đó cho đến khi thắng bạc. Tuy nhiên, casino quy định giới hạn tối đã đối với mỗi lần đặt cược, vì vậy, trò này trở thành vô tác dụng trong sòng bạc.Thị trường chứng khoán lại hoàn toàn khác với một sòng bạc, ít nhất ở những nền công nghiệp hiện đại, với luật sở hữu tài sản hoàn hảo và quy tắc kinh doanh rõ ràng, dưới sự giám sát của những cơ quan luật pháp quốc gia. Các quy tắc cũng được thiết lập mà không ưu tiên cho bất kỳ nhóm đầu tư nào. Bất kỳ thông tin liên quan nào cũng được công bố rộng rãi và tất cả đều có cơ hội tiếp cận chúng. Nếu bạn biết thu thập tất cả thông tin liên quan và biết cách phân tích chúng để ra quyết định, xác suất thắng cuộc chắc chắn sẽ nghiêng về phía bạn.Tuy nhiên, còn đó hai vấn đề: a) làm thế nào và lấy thông tin ở đâu (thực tế này không phổ biến cho lắm) và b) làm gì với thông tin nhận được. Nếu biết cách phân loại, lựa chọn và xử lý một khối lượng lớn thông tin, bạn có thể hành động trong thị trường chứng khoán như một chủ sòng bạc như đã đề cập ở trên. Mặt khác, nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán mà không quan tâm đến việc thu thập thông tin hoặc không biết cách phân tích thông tin, họ có xu hướng hành động như người chơi bạc: xác suất thắng của họ cũng chẳng hơn những kẻ đánh bạc. Tuy nhiên, thực tế là trong khi nhiều sòng bạc kiếm được tiền, thì một số vẫn thua lỗ, ít nhất là tạm thời, khi một số khách hàng của họ gặp hên, hoặc do kết quả của việc quản lý yếu kém của sòng bạc.Chơi bạc như một người chủ sòng bạc hay trên thị trường chứng khoán đều đi kèm với rủi ro. Tuy nhiên, tỷ lệ được, mất đều phụ thuộc vào hiểu biết của nhà đầu tư chứng khoán, cũng như người chủ sòng bạc.Kinh doanh chứng khoán là một nghề rủi roTrong lý thuyết tài chính và kinh tế, giả thuyết nổi tiếng là thị trường chứng khoán là một quy trình ngẫu nhiên, đó là giả thuyết Bước Đi Ngẫu Nhiên (Random Walk). Theo giả thuyết này, thị trường chứng khoán là kẻ chiết khấu những sự kiện tương lai rất hiệu quả, vì vậy, giá chứng khoán hiện tại luôn phản ánh lợi nhuận tương lai, do đó, không ai có thể kiếm lời với một tỷ suất lợi nhuận liên tục quá cao trong thời gian dài. Không ai có thể phủ nhận thực tế rằng, thị tường chứng khoán là một kẻ chiết khấu những cơ hội của tương lai.Thực tế, thị trường chứng khoán cung cấp những tín hiệu đầu tiên của bất kỳ một cuộc suy thoái kinh tế nào trong lịch sử. Cuộc suy thoái hiện tại cũng không phải là ngoại lệ. Thị trường chứng khoán bắt đầu suy sụp trước khi một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra. Và thông thường giá cổ phiếu bắt đầu nhích lên trước khi kinh tế phục hồi. Tuy nhiên, những thông tin được công bố rộng rãi cũng không cho phép một người bình thường dự đoán được tương lai. Nếu bạn bán cổ phiếu trong thời kỳ suy thoái đã chính thức được thừa nhận và mua cổ phiếu khi nền kinh tế đã đang trên đà tăng trưởng, bạn đã bỏ lỡ nhiều cơ hội và những gì bạn nắm bắt được không sinh lời cho lắm. Thậm chí, bạn sẽ có thể gặp phải kết cục khá tồi tệ so với một nhà đầu tư nắm trong tay một danh mục đầu tư đa dạng trong một thời gian dài. Mặc dù thời điểm mua cổ phiếu là một yếu tố quyết định sự thành công thì việc bán cổ phiếu lại là một thách thức khác. Trong một chiến lược đầu tư, thời điểm bán ra là thời điểm quyết định toàn bộ tỷ suất lợi nhuận của quyết định đầu tư của bạn.Một nhà đầu tư trung bình trên thị trường chứng khoán không thể nào thu nhập được hơn tỷ suất của thị trường. Một nhà đầu tư trung bình hành động theo thông tin có sẵn trên thị trường mà không có sự phân tích sắc sảo nào. Một nhà đầu tư chứng khoán sắc sảo suy nghĩ và hành động hơn hẳn đám đông và thường đối lập với quan niệm và nhận thức của quần chúng.Trong số những nhà đầu tư chứng khoán sắc sảo lại có một số sắc sảo và vĩ đại hơn: trong số những nhà đầu tư thành công, có một số nổi bật hơn cả. Đó là những tên tuổi lớn trong quá khứ cũng như hiện tại. Hai tên tuổi lớn danh tiến là: nhà kinh tế người Anh, David Ricardo, của thế kỷ 19, một trong những người sáng lập Kinh tế học cổ điển, được biết đến như là một nhà đầu tư chứng khoán bậc tài: ông ta thu được những khoản tiền khổng lồ khi còn rất trẻ. Một người khác, nổi tiếng gần đây hơn là nhà kinh tế người Anh, John Maynard Keynes, của thế kỷ 20. Ông là người sáng lập ra thuyết kinh tế mới thay thế kinh tế cổ điển của thời đại Ricardo. Ông cũng là một nhà cố vấn kinh tế quốc tế, có ảnh hưởng rất lớn đối với quan điểm kinh tế và đối với nhiều viện kinh tế phương Tây được thành lập sau Đại chiến thế giới thứ 2. Ông cũng nổi tiếng là giáo sư giàu có của Đại học Cambridge và từng là một nhà kinh doanh chứng khoán ngắn hạn kỳ tài. Ông thậm chí còn kiếm lời cho trường đại học của mình khi đầu tư ngắn hạn vào một quỹ thừa kế bằng cách tăng giá trị của quỹ lên 10 lần dưới sự quản lý của ông.Nhà kinh tế người Mỹ Bernard Baruch, thế kỷ 20 cũng là một trong những người nổi tiếng trong giới đầu tư chứng khoán. Ông cũng nổi tiếng vì đã cứu Thủ tướng Anh, Winston Churchill, khỏi phá sản do không hiểu biết về thị trường chứng khoán. Winston Churchill, một chính khách vĩ đại, thủ lĩnh của nước Anh trong Đại chiến thế giới thứ 2 đã có dịp trở thành nạn nhân của việc đầu cơ chứng khoán. May thay, ông đã kể chuyện mua bán của mình cho người bạn Bernard Baruch; ông này rất ngưỡng mộ Churchill như một nhà lãnh đạo chính trị nhưng không tin tưởng vào khả năng đầu tư chứng khoán của bạn mình. Khi Churchill kể cho Baruch về việc mua quá nhiều một loại cổ phiếu, Baruch đã bù đắp lại khoản tiền mua này ày bằng cách bán một khối lượng tương tự loại cổ phiếu trên. Sau đó, khi thị trường sụp đổ, ông Baruch đã lấy lại được đúng khoản tiền mà nhà chính khách Anh đã bỏ ra để mua loại cổ phiếu mà sau đó đã trở thành vô giá trị.Ngày nay, nhà đầu tư chứng khoán George Soros là một tỷ phú (bằng USD) nổi tiếng vì sự sắc sảo trong đầu tư, không chỉ trên thị trường chứng khoán mà còn trong những lĩnh vực đầu tư khác. Tỷ suất thu nhập dài hạn của quỹ tương hỗ của ông ta lên tới gần 30% hàng năm trong nhiều thập niên liên tiếp trở lại đây. Ông ta cũng nổi tiếng là nhà kinh doanh khôn ngoan trong giao dịch ngoại hối và một số lĩnh vực khác. Tuy vậy, cũng có khi ông ta thua lỗ hàng trăm triệu USD.Warren Buffet là một nhà tỷ phú khác của Mỹ và có thể là nhà đầu tư chứng khoán thành công nhất trong lịch sử chứng khoán hiện đại. Chèo lái con thuyền Berkshire Hathaway, một công ty đầu tư, ông ta đã biến khoản vốn nhỏ đi vay từ đầu những năm 1960 thành một khoản đầu tư hàng tỷ USD và thậm chí đã tránh được hàng loạt rủi ro đầu tư. Ông cũng nổi tiếng là một nhà đầu tư chứng khoán giàu có nhất trên thế giới. Tài sản cá nhân của ông có thể ước đoán bằng số cổ phiếu mà ông nắm giữ tại tập đoàn Berkshire và có thể biến động quanh con số 40 tỷ USD. Trong chiến lược kinh doanh của mình, ông Warren Buffet tuyên bố mua cổ phiếu của những công ty mà ông ta thích dựa vào tính toán ban đầu về giá trị của chúng và tiềm năng phát triển dài hạn của những công ty này.Trong lĩnh vực quỹ đầu tư tương hỗ, chúng ta cũng có thể tìm thấy những nhà quản lý có khả năng liên tục đạt được tỷ suất thu nhập 25% đến 30% trung bình hàng năm, trong suốt cuộc đời hoạt động 20 đến 25 năm của họ. Trong đó có tên Peter Lynch, cựu giám đốc quản lý của Quỹ Fedelity Magellan. Trong lúc chỉ có những nhà đầu tư xuất sắc trong giới đầu tư thị trường chứng khoán như nói ở trên mới có thể đạt được tỷ suất này, những nhà kinh doanh danh tiến đã có thể kiếm được những khoản tài sản hàng tỷ USD, nhưng chỉ thủ nhập được một tỷ suất lợi nhuận trung bình hàng năm là 15%. Nhóm những người nổi tiếng và giàu có trên thị trường chứng khoán thường đạt được một tỷ suất thu nhập cao vượt trội. Họ là những người từng tiên đoán được biến động của thi trường trước quần chúng. Tháng 3/2000, trong một buổi phỏng vấn trên truyền hình, một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel của Mỹ, Giáo sư Franco Modigliani, đã cảnh báo công chúng về nguy cơ sụp đổ của thị trường chứng khoán NASDAQ. Cảnh báo của ông ta đã rất hợp thời, vì thực tế là chỉ số NASDAQ từ mức 5.000 hồi tháng 3/2000 đã giảm xuống đến một mức giá quá thấp xa như hiện nay. Giáo sư Modigliani không phải là kẻ ngoài cuộc của thị trường chứng khoán. Tại thời điểm đen tối của thị trường chứng khoán đầu những năm 1980, ông cũng đã dự đoán hoàn toàn chính xác mức giá thị trường của Mỹ sẽ lên một cách mãnh liệt. Tất cả những thực tế nói trên cũng đã đưa ra nhiều thắt mắt cho giả thuyết Bước Đi Ngẫu Nhiên.Đầu tư và khả năng tạo ra của cải của thị trường chứng khoánVề dài hạn, đầu tư vào thị trường chứng khoán với một danh mục đầu tư đa dạng đại diện cho nền kinh tế quốc dân chính là đầu tư vào nền kinh tế. Trong khoảng thời gian vài thập niên, thực tế là thị trường chứng khoán của những nền kinh tế phát triển luôn luôn đạt được một tỷ suất thu nhập hấp dẫn. Một tỷ suất thu nhập không nhất thiết làm cho bạn trở nên giàu có trong một đêm, nhưng nó nhất thiết cao hơn tỷ lệ lạm phát dài hạn, hoặc tỷ suất thu nhập trái phiếu hoặc của kim loại quý.Thực tế này đã được kiểm chứng trong lịch sử và không chỉ đúng với nền kinh tế Mỹ trong thế kỷ 20 mà còn luôn luôn đúng trong quá khứ của những nền công nghiệp hiện đại. Đối với thị trương Mỹ, sự kiện nầy có thể được kiểm chứng dùng một số chỉ số đại diện cho thị trường Mỹ. Những chỉ số nổi tiếng thi trường chứng khoán Mỹ là:Chỉ số NASDAQ Chỉ số thị trường chứng khoán New York, chỉ số của tất cả các loại cổ phiếu giao dịch trên thị trường Wall Street Chỉ số Standard and Poor 500 Chỉ số trung bình Dow Jones, chỉ số lâu đời nhất và nổi tiếng nhất. Chỉ số Dow Jones ban đầu chỉ là trung bình cộng giá cổ phiếu của 65 tập đoàn lớn giao dịch trên thị trường Mỹ: 30 công ty trong ngành công nghiệp, 20 công ty trong ngành vận tải và 15 công ty trong ngành dịch vụ công cộng. Chỉ số NASDAQ, một phần lớn đánh gía hoạt động của lĩnh vực công nghệ cao tại Mỹ là chỉ số mới nhưng ngày càng có tầm quan trọng tính về khối lượng và giá trị trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên chỉ số chứng khoán lâu đời và nổi tiếng nhất tại Mỹ là chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones, đánh giá giá trị trung bình cổ phiếu của 30 công ty công nghiệp hàng đầu của Mỹ. Chỉ số này có lịch sử lâu đời từ thế kỷ 19. Trong hai thập niên vừa qua, tỷ suất lợi nhuận của những loại cổ phiếu hàng đầu này là trung bình trên 18%, trong đó gồm cả lợi tức và tăng giá vốn. Nguyên nhân lý giải cho tỷ suất cao kỷ lục này là nền kinh tế Mỹ trải qua một giai đoạn phát triển dài từ đầu những năm 1980, với một năng suất lao động thần kỳ. Lịch sử cho thấy, kinh tế Mỹ có xu hướng rơi vào suy thoái kinh tế với chu kỳ từ 3 đến 5 năm. Từ năm 1980 kinh tế Mỹ đã trải qua 4 cuộc suy thoái: 1980, 1981-1982, 1990 và cuộc suy thoái hiện nay. Cuộc suy thoái năm 1990 khá nhẹ nhàng và ngắn ngủi và theo những dữ liệu hiện nay, cuộc suy thoái lần này cũng vậy.Lần tăng trưởng kinh tế Mỹ trước đây kết thúc với một cuộc khủng hoảng là một kỷ lục trong lịch sử. Thành tựu sử dụng máy vi tính, việc áp dụng công cụ sản xuất công nghệ cao trong hàng loạt hoạt động của con người, sự xuất hiện của nền kinh tế Internet trong những năm gần đây, tất cả đã lý giải tỷ suất lợi nhuận tăng bất thường trên thị trường chứng khoán trong 2 thập niên vừa qua. Điều này dường như cũng bày tỏ ra rằng, một nền kinh tế trì trệ có thể được tiếp sức trở thành một nền kinh tế năng động tăng trưởng nhanh bằng một phương thức quản lý kinh tế tích cực, mở cửa và hướng về thị trường cùng với việc áp dụng hàng loạt những phương thức sản xuất công nghệ cao.Mức tỷ suất lợi nhuận 18% của thị trường chứng khoán Mỹ trong hai thập kỷ vừa qua cao gấp hai lần tỷ suất tiêu chuẩn trong lịch sử. Tỷ suất lợi nhuận trung bình từ cuối thế kỷ 19 là chỉ độ 9%, nhưng vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát, lúc đó là khoảng 3%/năm trung bình và tỷ suất trái phiếu.Thành tích của thị trường chứng khoán Mỹ từ thời kỳ Đại khủng hoản kinh tế đến naySau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, tiếp đó là Đại khủng hoảng năm 1930, chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones, đã giãm từ mức 400 điểm trước suy thoái, và đã mất đi 90% giá trị của nó. Mãi đến năm 1953 mới phục hồi được mức giá cũa trước cuộc Đại khủng hoảng. Từ năm 1966 đến 1982, chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones, gồm có 30 tập đoàn lớn và co uy tín nhất của Mỹ dao động ở mức 1036.27 (đạt được trong lần tăng trưởng kinh tế của năm 1972) và 577.60 ( mức đáy của cuộc suy thoái của năm 1974-1975). Cũng trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới cũng sa vào thời kỳ trì trệ vì lạm phát và năng suất thấp. Từ mức thấp nhất của thời kỳ khủng hoảng kinh tê năm 1981-1982, chỉ số Dow Jones bắt đầu nhích lên và tăng vọt lên đến mức 10.000 điểm, tại thời điểm của bài viết này.Một trong những cách ước lượng tổng tỷ suất lợi nhuận dài hạn của chứng khoán Mỹ (bao gồm lợi tức và tăng giá vốn) là nghiên cứu hoạt động của chỉ số Dow Jones 30. Bằng cách tính toán đơn giản, chúng ta có thể ước tính tỷ suất lợi nhuận của thị trường chứng khoán tại từng thời điểm. Kết quả rất khác nhau phụ thuộc vào thời gian, ngắn hay dài, nắm giữ cổ phiếu và sự tăng trưởng của nền kinh tế. Giai đoạn từ đầu năm 1967 đến cuối 2001 (35 năm) vượt qua một thời kỳ trì trệ khá lâu 1966-1982 (kinh tế suy thoái và lạm phát tăng vọt). Mặc dù trong thời kỳ 15 năm này, kinh tế hoạt động kém hiệu quả, danh mục chỉ số Dow Jones 30 vẫn đạt được một tỷ suất lợi nhuận cao là 11%/ năm (bao gồm lợi tức và tăng giá vốn). Cổ tức trả hàng năm của các cổ phiếu Dow Jones 30 tăng dần theo từng năm, vì vậy, nếu so sánh với số vốn đầu tư ban đầu, riêng cổ tức đã đạt được mức 14%. Vì vậy, bạn càng giữ được những cổ phiếu hàng đầu trong thời gian dài, bạn càng có nhiều cơ hội gặt hái nhiều lợi tức, và khoản này cao hơn nhiều so với thu nhập cố định từ các phương thức đầu tư khác như trái phiếu hay chứng khoán ký gửi. Hình thức chứng khoán ký gửi có thể đảm bảo về danh nghĩa khoản vốn đầu tư của bạn nhưng không đảm bảo sức mua thực tế: nếu tính toán cả mức lạm phát, sức mua của khoản vốn ban đầu sẽ phải trừ đi tỷ lệ lạm phát.Một thực tế được kiểm nghiệm trong nền kinh tế Mỹ và ở bất kỳ nền công nghiệp phát triển nào là một danh mục đa dạng cổ phiếu mang lại biện pháp bảo vệ hữu hiệu hơn, chống lại sự mất giá của đồng tiền, với tỷ suất lợi tức cao hơn so với thu nhập cố định từ trái phiếu và những hình thức thu nhập cố định khác. Một lý do của sự ưu việt này là thu nhập từ cổ phiếu và thu nhập cố định rất khác nhau, và hơn nửa bản chất con người không thích sự bất ổn khi xét về lợi ích thu được. Điều này đã lý giải phần thưởng mà thị trường dành cho các cổ đông vì họ là những người chấp nhận tính bất ổn của thu nhập cổ phiếu. Cổ tức chỉ được thanh toán cho cổ đông khi doanh nghiệp có lãi, trong khi tiền lãi của trái phiếu phải được trả bất chấp doanh nghiệp đó có sinh lợi hay không. Nếu không trả được lãi của trái phiếu của mình, doanh nghiệp đó coi như đã đứng trên bờ vực phá sản. Thậm chí, chậm trả lãi cũng đủ khiến cho một doanh nghiệp bị phá sản, bởi vì trong tài chánh, thời gian là tiền bạc và thời gian đã được thoả thuận để thưc hiện hứa hẹn trả tiền là một sự kiện cực kỳ quan trọng. Một hứa hẹn tài chánh không được tôn trọng, hoặc thưc hiện chậm trể là một bước đến bờ lề của cuộc phá sản trong những hệ thống kinh doanh có uy tín. Một lý do nữa dẫn đến tỷ suất cao hơn hẳn của cổ phiếu là vì chúng đại diện cho sự sở hữu của thành phần năng động nhất của nền kinh tế. Đó là các doanh nghiệp tư nhân, đó là những người chấp nhận những rủi ro khi tạo ra của cải cho xã hội, vậy còn ai có thể có sự khích lệ nắm giữ và bảo vệ phần của cải tốt đẹp hơn là bản thân những người đã tạo ra của cải như họ? Ngoại lệ có thể xảy ra là vai trò của Chính phủ trong việc thu thuế. Thậm chí quyền đánh thuế của Chính phủ cũng bị hạn chế bởi khả năng di chuyển của các doanh nghiệp giữa những khu vực có ưu đãi thuế hơn, đặc biệt trong thế giới đầy cạnh tranh và mở cửa như hiện nay.Trong bất kỳ giai đoạn 10 đến 20 năm nào trong lịch sử, một danh mục đầu tư đa dạng trong thị trường chứng khoán luôn luôn hiệu quả hơn những hình thức đâù tư khác, tính về tổng thu nhập thực tế. Trong lịch sử gần đây của kinh tế Bắc Mỹ, cổ phiếu từ thời kỳ cuối những năm 1960 đã đạt được một tỷ suất lợi nhuận trung bình là 11% /năm. Trong bất kỳ giai đoạn 10 năm nào, chỉ số Dow Jones 30 từ năm 1967 đến 2000, tỷ suất lợi nhuận luôn luôn cao hơn 11%. Nổi bật nhất là thời kỳ 20 năm vừa qua, tính từ cuộc suy thoái kinh tế 1981-1982. Điều này là do tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc của Mỹ trong giai đoạn này. Ví dụ, một danh mục đầu tư của Chỉ số chứng khoán Dow Jones 30 trị giá 786 USD đầu năm 1967. Lợi tức phát cho cổ đông trong năm đầu tiên của danh mục là 30,19 USD. Sau đó, lợi tức hàng năm tiếp tục tăng cho đến khi đạt 110 USD/năm kể đến vào ngày 31/1/2000. Nói cách khác, chỉ tính tỷ suất lợi tức không mà thôi, đã đạt được gần 14% dựa trên nguồn vốn đầu tư ban đầu năm 1967 (cổ tức 110 so với vốn đầu tư 786). Và chỉ số Dow Jones 30 được định giá 10.024 vào đầu năm 2002, gấp 12 lần giá trị giá trị của nó ở đầu năm 1967. Tuy nhiên, chỉ số tổng hợp Dow Jones đã biến động quan hệ với bối cảnh kinh tế thay đổi của Mỹ. Tuy nhiên, chúng ta có thể điều chỉnh để phản ánh trung thực hơn danh mục đầu tư trên. Đặc biệt trong những năm gần đây, những công cụ tài chính mới và thuận tiện đã được thành lập và giới thiệu trong giới đầu tư nhằm phản ánh hoạt động của một số chỉ số thị trường, trong đó có chỉ số Dow Jones 30. Trong vòng 10 năm qua, tính đến 31/1/ 2002, theo báo cáo chính thức của Công ty Dow Jones, chỉ số công nghiệp Dow Jones đạt trung bình tỷ suất lợi nhuận là 16,12%/năm.Hiệu quả của việc tạo ra của cải của thị trường chứng khoán được Ban quản lý của Quỹ thừa kế của Giải thưởng tài năng Nobel hiểu rõ hơn ai hết. Trong những năm đầu, việc quản lý vốn đòi hỏi an toàn và do đó, Quỹ chỉ đầu tư vào trái phiếu và những thu nhập cố định có đảm bảo. Kết quả là giải thưởng Nobel được trao trong những năm đầu phải mất nhiều thời gian để đối phó với vấn đề lạm phát. Sự đổi hướng trong chính sách đầu tư cho phép quỹ này có thể đầu tư vào cổ phiếu. Kết quả là quỹ này đã có thể tăng giải thưởng hàng năm từ mức 40.000 USD trong những năm 1960 lên tới hàng triệu USD như ngày nay.Chính sách đầu tư ở những thể chế danh tiếng trong lĩnh vực công cộng cũng như trong khu vực tư nhân ở Bắc Mỹ đã khéo dùng những công cụ đầu tư đa dạng, trong đó có tham gia vao việc duy trì tỷ số lớn các cổ phiếu cúa thị trường chứng khoán Mỹ. Kết quả của chính sách này đã đem lại một khả năng thích hợp hơn về tìm năng trợ cấp và lợi tức khác của các thể chế ấy cho nhân công của họ. Chỉ số và tín hiệu của thị trường chứng khoánVASC, 03/08/2002, 14h15Bản chất của thị trường chứng khoán là một sinh hoạt rất cầu kỳ, đặc biệt trong những nền công nghiệp hiện đại, cho phép giao dịch một khối lượng lớn cổ phiếu do hàng loạt các công ty hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế phát hành: mỗi ngày diễn ra hàng loạt giao dịch trên sàn chứng khoán, với một giá trị hàng tỷ USD Mỹ vượt qua biên giới mọi quốc gia.Thách thức của thị trường chứng khoán đối với nhu cầu quan sát của nhà đầu tư là xây dựng một số công cụ thống kê có thể phản ánh, một cách trung thực, kết quả thực tế của sinh họat đầu tư và cùng một lúc cho phép tiến hành so sánh kết quả ấy theo thời gian. Nhằm hiểu rõ hoạt động của thị trường này và đặc biệt là xu hướng vận động của chúng, chúng ta cần có một hệ thống công cụ thống kê. Những chỉ số hiện hửu đã đươc sử dụng nhằm đánh giá hoạt động của thị trường chứng khoán cũng có thể giúp chúng ta tìm ra vị trí của nó so với quá khứ. Những tín hiệu của thị trường chứng khoán dựa trên các công cụ hệ thống kê cũng có thể giúp chúng ta có đầu mối để tìm ra hướng đi trong tương lai. Những tín hiệu chứng khoán ấy phải thực sự có ích với sự trợ giúp của một số phương pháp đánh giá chính xác theo thời gian. Nếu một chỉ số hoặc một tập hợp chỉ số được xem là tín hiệu có ích, chúng phải hỗ trợ dự đoán xu hướng biến động của giá chứng khoán.