Tình hình kinh tế xã hội Đại Việt cuối thời Lý như thế nào

Tìm các số nguyên x; y biết [Lịch sử - Lớp 6]

1 trả lời

Nước Đại Việt thời Lý - Trần đã đạt được những thành tựu nổi bật gì?

Nước Đại Việt thời Lý - Trần đã đạt được những thành tựu nổi bật gì?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào những kiến thức đã học bài 12 và bài 15 để trả lời.

* Những thành tựu nổi bật của nước Đại Việt thời Lý - Trần

Tình hình kinh tế nước ta ở nửa cuối thế kỉ XIV như thế nào? Tại sao có tình trạng đó?

Đề bài

Tình hình kinh tế nước ta ở nửa cuối thế kỉ XIV như thế nào? Tại sao có tình trạng đó?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk trang 74 để trình bày và lí giải. 

Lời giải chi tiết

* Tình hình kinh tế nước ta ở nửa cuối thế kỉ XIV:

- Kinh tế nông nghiệp sa sút, nhiều năm mất mùa, đói kém.

=> Đời sống nhân dân ngày càng bấp bênh, cực khổ. Nhiều nông dân phải bán ruộng đất, vợ, con cho các quý tộc, địa chủ và biến thành nô tì, bị bóc lột nặng nề.

* Nguyên nhân:

- Nhà nước không còn quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, không chăm lo tu sửa, bảo vệ đê điều, các công trình thủy lợi.

- Tình trạng tư hữu hóa ruộng đất diễn ra mạnh mẽ, do các chính sách ruộng đất của nhà nước và sự lớn mạnh của giai cấp địa chủ, vương hầu, quý tộc.

- Trong khi đó, nhà nước vẫn ban hành và thực hiện các chính sách thuế khóa nặng nề.

Loigiaihay.com

Em nghĩ gì về chủ trương của nhà Lý đối với các tù trưởng dân tộc miền núi và các nước láng giềng.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 10: Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước

    - Vùng biên giới phía Bắc và Tây Bắc nước ta là nơi cư trú của các dân tộc ít người. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, các dân tộc ít người đã sát cánh với người Kinh để xây dựng và bảo vệ đất nước chống phong kiến phương Bắc, vì thế những việc làm của Lý Công Uẩn là để củng cố khối đoàn kết dân tộc, vì đây là cội nguồn sức mạnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    - Nhà Lý tiếp tục giao bang với nhà Tống và các nước láng giêng, nhưng nhà Lý thực hiện một nguyên tắc không thể nhân nhượng đó là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nếu nguyên tắc lại bị vi phạm, nhà Lý cử người kiên quyết đòi lại, thậm chí đem quân đánh trả.

Xem tiếp...

Quân đội thời Lý được tổ chức như thế nào ?Em có nhận xét gì về tổ chức quân đội thời Lý ?

Chi tiết Chuyên mục: Bài 10: Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước

    - Quân đội nhà Lý được chia làm 2 bộ phận: cấm quân và quân địa phương.

    + Cấm quân: là quân đội được tuyển chọn kĩ càng về lí lịch và sức khỏe, có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua và kinh thành.

    + Quân địa phương gọi là lộ quân, sương quân có nhiệm vụ canh phòng các lộ, phủ, áp dụng chính sách "ngụ binh ư nông".

    - Quân đội thời Lý bao gồm các binh chủng, thủy binh, kị binh và tượng binh, kỉ luật rất nghiêm minh, được rèn luyện chu đáo.

    - Vũ khí có giáo mác, dao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá …

    → Quân đội nhà Lý được tổ chức khá chu đáo, quy củ và hùng mạnh.

Xem tiếp...

Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thời Lý – Trần [thế kỷ XI-XIV]

1 Tình hình chính trị

Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con của Lê Hoàn huy động lực lượng trong các thái ấp của mình đánh lẫn nhau trong 8 tháng để tranh giành ngôi báu. Năm 1006, Lê Long Việt lên ngôi mới được 3 ngày, bị em là Long Đĩnh giết để cuớp ngôi. Long Đĩnh vừa tàn bạo vừa ham mê tửu, sắc, bị bệnh không ngồi được, nên khi coi chầu phải nằm, sử cũ gọi là vua Ngọa triều. Tình hình chính trị cuối triều Lê ngày càng thối nát, nhân dân oán giận. Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì vậy, các sư tăng và đại thần, đứng đầu là sư Vạn Hạnh, tôn Điện tiền chỉ huy sứ tên là Lý Công Uẩn lên làm vua, mở đầu cho Vương triều nhà Lý [l010- 1225]. Tiếp theo triều Lý là Vương triều Trần [1226-1400].

Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế [Thái Tổ], đặt niên hiệu là Thuận Thiên, cho dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, sau đó đổi thành Thăng Long [rồng bay], chính thức gọi tên nước là Đại Việt. Từ đó, trải qua các triều vua, nhà Lý và nhà Trần ra sức xây dựng, làm hoàn thiện dần bộ máy nhà nuớc quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng các bộ luật thành văn, củng cố lực lượng quốc phòng vững mạnh, xây dựng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm thắng lợi.

– Tổ chức hành chính và bộ máy quan lại

Quan chế của nhà nước Lý – Trần có quy củ, chặt chẽ hơn các triều đại trước. Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng đầu các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo [tam thái]. Dưới đó là chức thái úy , nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này được gọi là tể tướng . Tiếp đến là các chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy [phụ trách cấm quân], nội điện đô trị sự, ngoại điện đô trị sự, kiểm hiệu bình chuơng sự . Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà vua. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên trách như Trung thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.

Năm 1097, nhà Lý cho biên soạn và ban hành Hội điển , quy định các phép tắc chính trị, tổ chức bộ máy quan lại. Từ đó, quy chế tổ chức hành chính và quan lại được xác lập, thể hiện bước tiến bộ rõ rệt trong việc quản lý xã hội, đất nước. Các quan lại cao cấp có nhiều công lao được phong thực phong, thực ấp. Chỉ con cháu những người có quan tước, được tập ấm, mới được làm quan.

Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện hơn thời Lý. Khác với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con trai trưởng [hoàng thái tử] nhưng vẫn cùng với vua [con] trông coi chính sự, tự xưng là Thái thượng hoàng . Chế độ Thái thượng hoàng thời Trần có tác dụng ngăn chặn tình trạng các đại thần chuyên quyền, cướp ngôi khi vua còn ít tuổi. Trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là ba chức thái [sư phó, bảo] chỉ có điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá thánh, phụ quốc để gia phong thêm [như thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo]. Chức thái úy thời Lý [tướng quốc] đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự . Giúp việc cho tể tướng [tướng quốc] thời Trần đặt thêm các chức hành khiển nằm trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả các chức thượng thư [đứng đầu bộ], tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu . Dưới các chức vụ nói trên, các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu mỗi bộ là một viên thượng thư . Ban đầu mới có thượng thư hành khiển, thượng thư hữu bật [2 bộ], từ cuối thế kỷ XIV [1388-1398], đời Quang Thái mới có thêm thượng thư các bộ binh, hình… Dưới thượng thư có thị lang, lang trung giúp việc. Bên võ có các chức vụ phiêu kỵ tướng quân, đại tướng, đô tướng, tướng quân , lúc có chiến tranh, đặt thêm chức tiết chế tổng chỉ huy toàn quân.

Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng nhiều hơn, tổ chức chặt chẽ hơn như: các cục [Nội thư hoả cục, Chi hậu cục]; các đài [Ngự sử đài với các chức tả hữu gián nghị đại phu, thị ngự sử, giám sát ngự sử v.v.]; các viện [Khu mật viện với các chức tri mật viện sự, khu mật tham chính, thiêm tri mật viện sự, giám sự, v.v.], hàn lâm viện [với các chức hàn lâm học sĩ phụng chỉ, hàn lâm viện học sĩ..], Quốc sử viện, Thâm hình viện; giám [Quốc tử giám],v.v..

Nhìn chung, bộ máy quan lại ở trung ương thời Lý – Trần cấu trúc theo ba cấp: trung ương, cấp hành chính trung gian, cấp hành chính cơ sở, nhưng ngày càng có hệ thống, đầy đủ hơn từ thời Lý đến thời Trần. Ở các địa phương, nhà Lý từ năm 1011 đổi 10 đạo thời Lê làm 24 lộ , đặt thêm một số đạo và trại, châu . Một số châu, trại đổi làm phủ , các vùng xa gọi là châu [như châu Vĩnh An, Đằng Châu, châu Lâm Tây, v.v.]. Dưới lộ có huyện, hương.

Ở Kinh đô, nhà Lý giao cho một hoàng tử hay thân vương trông coi gọi là kinh sư lưu thủ . Ở các châu gần, đặt các chức tri châu, thông phán, tổng quản để trông coi. Ở các châu biên giới đặt chức châu mục đứng đầu. Đứng đầu phủ có chức tri phủ, tri phủ sự, phán phủ sự phụ trách.

Nhà Trần đổi 24 lộ thành 12 lộ [từ năm 1242]: Lộ Thiên Trường [gồm Xuân Trường, Mỹ Lộc thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay], Long Hưng [Tiên Hưng, Thái Bình] Quốc Oai [Hà Tây], Bắc Giang [nay là Bắc Giang], Hải Đông [Quảng Ninh], Trường Yên [Hà Nam], Kiến Xương [Thái Bình], Hồng [Hải Dương], Khoái [Hưng Yên], Thanh Hoá, Hoàng Giang [Hà Nam], Lạng Giang [Lạng Sơn]. Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ là an phủ sử , ở các phủ là tri phủ, trấn phủ rồi đến các viên chức thông phán, thiên phán, tào, vận lệnh uý v.v.. Các châu do chuyển vận sứ, thông phán quản lý, ở huyện do lệnh uý, chủ bạ coi giữ. Chế độ xã quan được phổ biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã . Các viên xã quan được tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm, từ ngũ phẩm trở lên làm đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống giữ chức tiểu tư xã [xã nhỏ]. Dưới đại, tiểu tư xã có các chức xã trưởng, xã giám giúp việc sổ sách.

Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức phụ trách về dòng họ nhà vua gọi là tông chính phủ . Năm 1230, nhà Trần cho ban hành bộ sách Thông chế gồm 20 quyển, lại cho soạn sách Quốc triều thường lễ , ghi chép công việc của triều đình. Việc cai quản đất nước dưới thời Trần theo quy chế rõ ràng, có bước tiến bộ, phát triển hơn thời Lý. Nhà Trần cũng thực hiện chế độ ban phong thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được xây dựng phủ đệ riêng.

Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ. Bởi vậy nhà Trần nắm khá chắc toàn bộ công việc chủ chốt trong triều, quyền lực tập trung trong tay nhà nước trung ương; chế độ quân chủ trung ương tập quyền được củng cố thêm một bước.

Cách sử dụng, bổ nhiệm quan lại của nhà nước Lý – Trần đã phản ánh rõ nét tính đẳng cấp sâu sắc, nhất là dưới thời Trần. Cũng có thể nói nhà nước thời Lý – Trần là nhà nước quân chủ quý tộc .

– Tổ chức quân đội và quốc phòng

Nhà nước Đại Việt thời Lý – Trần rất chú trọng xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh. Tổ chức quân đội có quy củ, chặt chẽ. Thời Lý, lực lượng quân đội có cấm quân [bảo vệ Hoàng cung và nhà vua] gồm 10 vệ gọi là điện tiền cấm quân . Về sau, từ năm 1059, Lý Thánh Tông chia thành 16 vệ, với tổng số quân chừng 3200 người, do một viên thiếu uý đứng đầu. Ngoài cấm quân còn có quân ở các lộ, phủ.

Tất cả nam đến tuổi 18 [gọi là hoàng nam] đều phải đăng lính. Bộ phận quân thường trực được chia thành 5 phiên, luân phiên nhau cày cấy nhằm vừa bảo đảm sản xuất nông nghiệp, vừa bảo đảm số quân cần thiết. Đây là chính sách “ngụ binh ư nông” có ý nghĩa tích cực trong công cuộc dựng nước và giữ nước dưới thời Lý – Trần. Chỉ huy quân đội thời Lý có đô thống, nguyên soái, tổng quản, thượng tướng, đại tướng, đô tướng.

Thời Trần, quân đội cũng chia làm hai bộ phận như thời Lý là cấm quân và quân các lộ. Cấm quân được tuyển chọn kỹ, gồm những thanh niên khoẻ mạnh, thông thạo võ nghệ. Cấm quân chia thành đội ngũ, mỗi quân gồm 30 đô, mỗi đô 80 người, tổng số có 10 quân.

Trong thời chiến nhà nước cho phép các vương hầu được mộ dân làm gia thuộc, gia đồng, lập thành đội quân riêng và trực tiếp chỉ huy, tạo nên một bộ phận “quân đội vương hầu’, khác với thời Lý.

Đội quân này đã góp phần tích cực và có hiệu quả trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên.

Ngoài lục quân, thuỷ quân thời Trần cũng như thời Lý là một lực lượng mạnh gồm nhiều thuyền chiến, được luyện tập binh pháp, giỏi bơi lội, thiện chiến.

– Luật pháp

Về mặt pháp chế, thời Lý – Trần có bước tiến bộ hơn thời Khúc, Ngô – Đinh – Lê ở chỗ nhà nước tăng cường hoạt động lập pháp, ban hành các luật lệ đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam thời trung đại.

Năm 1040, Lý Thái Tông xuống chiếu từ nay về sau phàm nhân dân trong nước, ai có việc kiện tụng thì giao cho thái tử xét xử trước khi trình lên vua quyết định. Năm 1042, nhà Lý biên soạn và cho ban hành bộ luật Hình thư, đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước quân chủ Việt Nam. Bộ Hình thư ra đời thay thế cho các quy chế, luật lệ, chiếu chỉ trước đó. Nhu cầu và tác dụng của Hình thư được phản ánh trong nhận xét của nhà sử học Ngô Sĩ Liên như sau: “Trước kia, trong nước, việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót, sai sửa định luật lệnh, châm chước cho, thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản làm sách hình luật của một triều đại để cho người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện”.

Các triều vua Lý về sau tiếp tục ban hành những luật lệ bổ sung về hành chính, hình sự, dân sự.

Pháp luật thời Lý nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà nước trung ương tập quyền, của giai cấp thống trị, trước hết là của nhà vua. Củng cố chế độ đẳng cấp, hạn chế sự bành trướng thế lực của bọn quan liêu quý tộc, bảo vệ nguồn bóc lột của nhà nước. Đối với tội thập ác, đặc biệt tội chống đối lại nhà Lý thì bị hình phạt rất nặng, tàn khốc như bị xẻo thịt, róc xương ở chợ, bị tùng xẻo, chặt chân, tay. Pháp chế thời Lý cũng có những mặt tích cực như coi trọng việc bảo vệ và phát triển sức sản xuất của dân tộc, quan tâm đến đời sống của con người, thể hiện tinh thần nhân ái trong pháp trị, tiêu biểu nhất là dưới triều đại Lý Thánh Tông [l054-l072] “Thánh Tông thành thực thương dân, khoan rộng việc hình. Cứ theo đạo ấy mà làm, thói dở đâu còn che lấp, dân tình đâu còn không thông, thiên hạ đâu còn lo chẳng thịnh trị”.

Đến thời Trần, pháp luật từng bước được đổi mới. Hoạt động pháp chế được tăng cường. Gốc nhân ái của pháp luật vẫn được giữ gìn, nhưng tinh thần pháp trị ngày càng được đề cao.

Năm 1225, nhà Trần thay thế nhà Lý cai quản đất nước. Năm 1230, Trần Thái Tôn đã cho soạn Quốc triều hình luật . Năm 1341, Trần Dụ Tông sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn Hình thư . Tên Hình luật và Hình thư đã nói rõ tính chất của các bộ luật đó. Việc xừ án, thi hành án cũng được chú ý.

Luật của nhà Trần về nội dung cũng giống luật của nhà Lý, bảo vệ địa vị và quyền lợi kinh tế của vua quan, quý tộc, củng cố quyền lực của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, đặc biệt của nhà vua. Đối với tội thập ác, đặc biệt tội phản nghịch, phản quốc bị xử rất nặng. “Hình phạt nhà Trần rất tàn khốc, kẻ ăn trộm và kẻ trốn tránh thì bị chặt ngón chân, giao cho người [sự chủ] được thoả ý [xử trị] hoặc cho voi giầy chết”.

Có thể nói, nếu nhà Lý mở đầu cho thời kỳ pháp luật thành văn và đưa pháp luật chính thức đi vào cuộc sống, thì nhà Trần đã kế thừa di sản tích cực đó, nâng cao hơn một bước để thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của đất nước, có tác dụng góp phần bảo vệ thành công nền độc lập, thống nhất quốc gia. Nét đặc sắc của pháp luật thời Lý – Trần là tinh thần pháp chế ngày càng được đề cao nhưng cái gốc của đạo trị nước là nhân và đức vẫn được chú trọng trong thực thi pháp luật, mặc dù tính giai cấp và đẳng cấp trong pháp luật vẫn rất đậm nét.

– Hoạt động đối ngoại

Nhà nước Lý – Trần tiếp tục thực hiện chính sách ngoại giao tích cực thời Đinh – Lê là chủ trương giao hảo với các nước lân bang, nhưng kiên quyết chống trả các thế lực ngoại xâm để bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.

Nhà Lý thường cử các đoàn sứ giả sang Tống nộp cống lễ Vua Tống biết chưa thể xâm lược được Đại Việt, nên đã phong vương và công nhận các vua triều Lý. Từ những năm 70 của thế kỷ XI, để cứu vãn tình thế nguy ngập trong nội bộ triều chính, nhà Tống chủ động phá mối quan hệ hòa hảo giữa hai nước, gây cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt. Đối với Chămpa và Chân Lạp, nhà Lý theo đuổi chính sách giữ yên biên giới của một vương triều mạnh. Nhưng Chămpa về hùa với Chân Lạp, nhiều lần đem quân xâm phạm Đại Việt, như vào các năm 1020, 1044, 1065. Nhà Lý đã điều quân đánh trả. Có những lần đánh vào tận kinh đô Phật Thệ như các năm 1044, 1069.

Nhà Trần tiếp tục chính sách của nhà Lý trong việc giữ yên biên cương, bảo toàn lãnh thổ. Tuy có sự việc xảy ra năm 1252, quân Chămpa cướp bóc vùng ven biển phía nam Đại Việt đã bị quân Việt, dưới sự chỉ huy của vua Trần Thái Tông, tiến quân vào đánh bại, nhưng nổi bật lên vẫn là quan hệ hoà hiếu rất tốt đẹp giữa nhà Trần với vương triều Indravarman IV của Chămpa, nhất là trong và sau cuộc phối hợp kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược. Trong quan hệ ngoại giao với Mông Cổ, nhà Trần tỏ thái độ rất kiên quyết tìm mọi cách để giữ vững độc lập, tự chủ, mặc dù vẫn chịu nộp cống cho chúng theo lệ thường từ trước với nhà Tống, làm cho nhà Nguyên phải kính nể. Khi quân Mông – Nguyên xâm lược nước ta, nhà Trần đã lãnh đạo cả nước đứng lên đánh thắng chúng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và độc lập của đất nước.

2. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời Lý – Trần

– Cuộc kháng chiến chống Tống của quân dân Đại Việt ở thế kỷ XI

Sau lần thất bại vào năm 981, triều đình nhà Tống chưa từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta nên năm 1005, khi Lê Hoàn mất, các hoàng tử đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi vua, nhà Tống đã muốn nhân cơ hội đó đem quân xâm lược, nhưng bấy giờ nhà Tống đang gặp nhiều khó khăn về nội trị và ngoại giao, không có điều kiện thực hiện âm mưu đó đối với Đại Việt.

Năm 1068, Tống Thần Tông lên cầm quyền, Vương An Thạch được cử làm tể tướng. Để mong vượt qua những khó khăn chồng chất về đối nội [ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn], đối ngoại [hai nước Liêu-Hạ thường xuyên uy hiếp], Tống Thần Tông và Vương An Thạch đã quyết định xâm lược Đại Việt. Tống Thần Tông trắng trợn nói rõ mục đích xâm lược của chúng đối với nước ta: “Sau khi Giao Chỉ thua, hãy đặt thành quận huyện mà cai trị và hãy sung công của cải”, và nếu thắng được thì “thế Tống sẽ tăng và các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.

Xuất phát từ mục đích đó, triều đình nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt [tăng cường lực lượng quân sự ở biên giới, tổ chức các căn cứ xuất phát cho cuộc xâm lược gần biên giới với Đại Việt, chọn những viên tướng hiếu chiến, am hiểu tình hình Đại Việt làm tướng chỉ huy quân đội, cắt đứt quan hệ bang giao với Đại Việt để giữ bí mật việc chuẩn bị xâm lược của mình, v.v.]. Nhà Tống còn xúi giục Chămpa đánh phá vùng biên giới phía Nam Đại Việt.

Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, triều đình nhà Lý quyết tâm chủ động đối phó bằng biện pháp tích cực nhất “ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước hết chặn thế mạnh của giặc” [Tiên phát chế nhân]. Đó là biện pháp phòng ngự tích cực nhất do Lý Thường Kiệt đề xuất và được triều đình nhà Lý tán thành. Với biện pháp táo bạo và sáng tạo đó, nhà Lý sẽ giành được thế chủ động tấn công tiêu diệt các cứ điểm xuất phát của giặc trước khi chúng có thời gian hoàn tất công việc chuẩn bị lực lượng kéo vào Đại Việt.

Nhà Lý huy động một lực lượng khá lớn, khoảng gần 10 vạn quân, gồm có quân đội chủ lực của nhà Lý và dân binh các bộ tộc miền núi do các tù trưởng chỉ huy như Tông Đản, Thân Cảnh Phúc. Lý Thường Kiệt trực tiếp làm tổng chỉ huy đạo quân này.

Ngày 27-10-1075, cánh quân đầu tiên của Lý Thường Kiệt đã tiến vào bao vây trại Cổ Vạn, tiếp đó, các cánh khác do các tù trưởng miền núi chỉ huy cũng đánh phá các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, Châu Lộc, Tây Bình… Đại quân do Lý Thường Kiệt chỉ huy tấn công tiêu diệt các cứ điểm Khâm Châu, Liêm Châu và ngày 18-1-1075 tấn công Ung Châu, cứ điểm mạnh của quân Tống gồm có 2800 quân do Tô Giám chỉ huy. Đến ngày 1-3-1076 quân đội nhà Lý hạ thành Ung Châu. Khi các mục tiêu chiến lược của cuộc hành quân đã đạt được, Lý Thường Kiệt ra lệnh cho toàn bộ quân rút về nước, chuẩn bị đánh quân Tống sang xâm lược.

– Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược

Sau khi rút quân về, Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho các địa phương chuẩn bị chống xâm lược, mai phục vùng biên giới, đường tiến quân của giặc. Nhiều phòng tuyến được dựng lên ở các nơi. Phòng tuyến chủ yếu xây dựng trên bờ nam sông Như Nguyệt [sông Cầu, đoạn chảy qua huyện Yên Phong – Bắc Ninh] dài 100km đắp bằng đất cao, vững chắc, có nhiều lớp giậu tre dày đặc, Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy bảo vệ phòng tuyến.

Cuối năm 1076, quân Tống xâm phạm biên giới nước ta và ngày 18-1-1077 hàng vạn quân Tống do Quách Quỳ tổng chỉ huy ồ ạt tràn vào nước Đại Việt và hội quân bên phía bắc sông Cầu, rải quân trên một tuyến dài từ bến Như Nguyệt đến núi Nham Biền. Không có thuyền để vượt qua sông Cầu tiến vào Thăng Long, Quách Quỳ cho quân lính đóng bè vượt sông, nhưng đều bị thất bại. Cánh thủy quân giặc do Hòa Mâu chỉ huy đã bị quân Lý do Lý Kế Nguyên đánh tan, không tiếp ứng được cho Quách Quỳ. Quách Quỳ thất vọng ra lệnh “ai bàn đánh sẽ bị chém” và quay về phòng ngự. Cuối mùa xuân 1077, quân Lý mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến địch, đánh thẳng vào các doanh trại giặc. Quân Tống thua to, bị tiêu diệt đến quá nửa. Quân Tống lâm vào tình thế hết sức khó khăn, tuyệt vọng. Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp chính trị mềm dẻo, đề nghị “giảng hoà”. Quách Quỳ chấp thuận ngay. Quân Tống vội vã rút về nước. Cuộc kháng chiến thắng lợi vẻ vang, đã bảo vệ được nền độc lập, tự chủ của Đại Việt.

– Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông- Nguyên

+ Cuộc kháng chiến lần thứ nhất [1257]

Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định tấn công với quy mô lớn nhằm tiêu diệt nước Nam Tống. Trong đợt tấn công xâm lược này, một đạo quân gồm 3 vạn do tướng Uryangkhađai [còn gọi là Ngột Lương Hợp Thai] chỉ huy được lệnh đánh thẳng vào Đại Việt rồi từ đây tiến vào miền Quảng Tây phối hợp với các đạo khác. Trước khi xâm nhập biên giới nước ta, tướng Mông Cổ cho sứ giả sang dụ hàng vua nhà Trần. Vua Trần bắt trói sứ giặc, ra lệnh cho nhân dân chuẩn bị kháng chiến. Chờ mãi không thấy sứ giả về, quân Mông Cổ chia 2 đường dọc sông Thao tiến vào. Ngày 17-1-1258 giặc kéo đến Bình Lệ Nguyên [Thuộc Tam Đảo, Vĩnh Yên]. Cuộc giao chiến lớn đầu tiên xảy ra, sau đó quân nhà Trần rút về Phù Lỗ. Tiếp đó, quân Trần cho phá cầu Phù Lỗ, dàn quân phòng ngự bên bờ sông, quân giặc tấn công đuổi theo quân Trần đến Đông Bộ Đầu. Triều đình nhà Trần chủ trương rút khỏi Thăng Long về đóng ở Thiên Mạc [Khoái Châu, Hưng Yên]. Nhân dân thực hiện chủ trương “vườn không nhà trống” của nhà vua, quân giặc vào Thăng Long không người, chỉ thấy các sứ giả của chúng bị trói nằm trong ngục tối. Chiếm được kinh thành bỏ trống, không có lương thực, quân Mông Cổ lúng túng. Lợi dụng thời cơ, ngày 29-1-1258 quân Trần phản công đánh tan quân địch ở Đông Bộ Đầu. Quân địch bị đánh bật khỏi Thăng Long, tháo chạy về Vân Nam. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.

+ Cuộc kháng chiến lần thứ hai [1285]

Cuối tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt cùng với tướng Aric Khaya [còn gọi là A Lý Hải Nha] cầm đầu ồ ạt tràn vào xâm lược Đại Việt. Các trận đánh diễn ra quyết liệt ở nhiều nơi trên vùng biên giới. Thấy thế giặc đang mạnh, Trần Hưng Đạo quyết định rút quân về Vạn Kiếp [Chí Linh, Hải Hưng]. Sau một vài trận đánh nhằm tiêu hao sinh lực địch, quân chủ lực nhà Trần rút khỏi Thăng Long. Nhân dân lại thực hiện “vườn không nhà trống” để chống giặc. Quân giặc hùng hổ kéo vào Thăng Long vắng lặng, chúng vội rút về đóng ở phía bắc sông Hồng.

Cùng thời gian này, Toa Đô từ Chămpa chỉ huy một đạo quân đánh ra Nghệ An thực hiện thế hai gọng kìm hòng siết chặt quân ta lại để tiêu diệt. Trần Quốc Tuấn và vua Trần lui quân ra các lộ miền biển rồi rút vào Thanh Hoá [tháng 4- 1285]. Tháng 4 năm Ất Dậu [tháng 5-1285] không bắt được vua Trần và không tiêu diệt được quân chủ lực nhà Trần, quân giặc lâm vào một tình thế khó khăn lớn, thiếu lương thực, ốm đau, bệnh tật. Nắm đúng thời cơ đó, quân đội nhà Trần liên tiếp tấn công quân giặc và tiêu diệt chúng ở bến Tây Kết [Khoái Châu – Hưng Yên], Hàm Tử [Khoái Châu], Chương Dương [Thường Tín – Hà Tây], Thăng Long. Ngày 10-6-1285 Thoát Hoan cùng quân giặc tháo chạy, trên đường chạy trốn, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát thân, Toa Đô bị chém đầu ở Tây Kết, Ô Mã Nhi chạy trốn thoát thân. Đất nước Đại Việt sạch bóng quân xâm lược.

+ Cuộc kháng chiến lần thứ ba [1287-1288]

Thất bại nặng nề, nhục nhã ở Đại Việt làm cho vua Nguyên hết sức căm giận. Y hạ lệnh điều động hàng chục vạn quân, hàng trăm chiến thuyền lớn, thuyền lương thực để xâm lược Đại Việt lần thứ 3. Thoát Hoan lại được giao nhiệm vụ tổng chỉ huy đạo quân này. Tháng 12-1287, quân Nguyên ồ ạt tràn vào nước ta. Quân bộ do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy vượt biên giới, đánh vào Lạng Sơn, rồi tiến xuống phía nam, đóng quân tại Vạn Kiếp, xây dựng căn cứ vững chắc. Cùng lúc đó, đạo thuỷ quân gồm 600 chiếc thuyền lớn do tướng Ô Mã Nhi cầm đầu theo đường biển tiến vào cửa sông Bạch Đằng. Phó tướng Trần Khánh Dư chỉ huy quân Trần tổ chức đánh tập kích vào Vân Đồn nhưng bị thất bại. Ô Mã Nhi dong thuyền vượt qua sông Bạch Đằng tiến về hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp.

Đoán biết thuyền lương của giặc do Trương Văn Hổ chỉ huy sắp tiến vào nước ta, Trần Khánh Dư bố trí trận phục kích và khi đoàn thuyền lương đến, quân Trần từ nhiều phía đổ ra đánh dữ dội ở Vân Đồn, phần lớn thuyền địch bị đắm, số còn lại bị quân Trần chiếm. Đợi mãi, không thấy đoàn thuyền lương đến, Thoát Hoan ra lệnh cho quân tiến vào Thăng Long [tháng 1 – 1288]. Quân giặc vào kinh thành vắng lặng, điên cuồng cướp phá, nhưng đến đâu cũng bị nhân dân ta chống trả quyết liệt. Đạo quân xâm lược đông đảo rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, thiếu lương ăn, không hợp thủy thổ.

Tin chiến thắng Vân Đồn, tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ và những khó khăn của giặc sau đó là thời cơ để quân Trần mở cuộc phản công tiêu diệt quân xâm lược ở trên sông Bạch Đằng bằng việc bố trí trận địa bãi cọc trên sông và cho quân mai phục, thống nhất kế hoạch đánh giặc. Đầu tháng 4-1288, đoàn thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy có kỵ binh hộ tống rút về trước theo hướng sông Bạch Đằng. Quân dân ta liên tiếp tập kích khiến cho chúng vất vả mới tiến được đến sông Bạch Đằng. Lúc đó, đoàn thuyền nhẹ của quân Trần ra khiêu chiến, giả vờ thua chạy. Đại quân Ô Mã Nhi đuổi theo lọt vào trận địa mai phục, đó cũng là lúc nước triều xuống nhanh. Từ hai bên bờ, quân Trần đổ ra đánh, phá vỡ đội hình giặc. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt. Bị đánh bất ngờ và quá mạnh, giặc hốt hoảng đua nhau rút nhanh ra biển, xô cả vào bãi cọc đang nhô lên, ùn lại, vỡ tan. Giữa lúc đó, hàng loạt bè lửa xuôi nhanh theo nước triều xuống, lao vào thuyền giặc. Bọn giặc khiếp sợ, nhảy lên bờ lại bị quân Trần đón chúng tiêu diệt. Toàn bộ đạo thuỷ quân của Ô Mã Nhi bị tiêu diệt. Lần này Ô Mã Nhi bị bắt sống.

Cùng thời gian đó, đạo quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy rút chạy theo hướng Lạng Sơn, bị quân dân ta phục kích đánh tan tác. Vất vả lắm Thoát Hoan mới chạy thoát về nước.

Ngày 18-4-1288, nhà Trần làm lễ tế mừng thắng trận trước Lăng Trần Thái Tôn.

Thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên ở thế kỷ XIII đã chứng minh chân lý: khi một nước nhỏ, dân không đông nhưng đoàn kết, quyết tâm cầm vũ khí và mưu trí đánh giặc thì có thể đánh bại những kẻ thù mạnh và hung hãn nhất.

Trần Quốc Tuấn, người có công lớn nhất trong kháng chiến [lần thứ 2,3], nhà chỉ huy quân sự thiên tài, người anh hùng của dân tộc đã khẳng định nguồn gốc của sức mạnh để chiến thắng kẻ thù là “cả nước ra sức đánh giặc” nên “bọn giặc phải bị bắt”.

Những cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân ta thời Lý – Trần đã góp phần xây đắp truyền thống quân sự Việt Nam, truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường, thà hy sinh tất cả chứ không chịu để mất nước, làm nô lệ cho ngoại bang của dân tộc Việt Nam.

Nguồn:Lương Ninh 2000, Chương V – Đại Việt trong các thế kỷ X-XIV [Thời Lý – Trần], Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr.125-139.

Video liên quan

Chủ Đề