Tư tưởng và phương châm đấu tranh ở miền nam trong giai đoạn 1965 - 1975 được đảng xác định là gì?

Kỷ niệm 47 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước [30/4/1975 - 30/4/2022]

Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã tạo bước ngoặt lịch sử vĩ đại, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết thực hiện bằng được mục tiêu, con đường nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy sức mạnh chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Ban Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến của chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, Hà Nội, tháng 4/1975. Ảnh tư liệu: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hiệp định Giơnevơ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết [tháng 7/1954]. Theo đó, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Lợi dụng sự thất bại của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào xâm lược miền Nam Việt Nam, âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ để ngăn chặn phong trào cách mạng ở Đông Nam Á. Vì vậy, đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7/1954 đến tháng 5/1975 là Đảng ta thực hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, đế quốc Mỹ trở thành một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương và đang trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá rất thận trọng các khả năng phát triển của tình hình trong nước và thế giới. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa II [tháng 7/1954], Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Ngày nay do tình hình mới, ta thay đổi phương châm chính sách và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt. Đây là một sự thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng, nhưng mục đích của cách mạng vẫn là một”[1]. Nhận định trên của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Từ việc nhận định và đánh giá đúng kẻ thù nên trong thời kỳ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp với tình hình cụ thể. Đầu năm 1959, tình thế cách mạng đã có những thay đổi lớn, có lợi cho ta, đặc biệt là phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam đang chuyển biến tích cực. Vì vậy, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15 khóa II [tháng 01/1959], Đảng ta khẳng định: “Con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ... con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”[2]; “Đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”[3]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 chính là cơ sở để phong trào “Đồng khởi” nổ ra mạnh mẽ và giành thắng lợi, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công và đánh bại chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mỹ.

Khi đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh kiểu mới”, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc tăng cường giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang bằng ba mũi giáp công chính trị, quân sự và binh vận trên cả ba vùng chiến lược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị. Đảng ta đánh giá: “Thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu”[4]. Trước sự nhạy bén trong việc chỉ đạo chiến lược của Đảng ta nên chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai đã thất bại hoàn toàn.

Cùng với việc đề ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta kiên định phương pháp cách mạng bạo lực tổng hợp, chủ yếu là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang được tiến hành trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước. Năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 [tháng 12/1965], Đảng ta nhấn mạnh: “Mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân đội viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”[5]… do vậy, cách mạng miền Nam phải giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Đảng ta sớm nhận diện, đánh giá đúng về kẻ thù, đó là dù đế quốc Mỹ là đội quân tinh nhuệ và thiện chiến, nhưng vào miền Nam không phải trong thế mạnh, mà trong thế yếu, thế bị động. Đối với ta, lúc này không chỉ mạnh về chính trị mà còn cả về quân sự. Đây là cơ sở để Đảng ta hạ quyết tâm đánh và thắng đế quốc Mỹ.

Đảng lãnh đạo giải quyết tốt mối quan hệ và đề ra đường lối chiến lược, nhiệm vụ cách mạng của hai miền Nam, Bắc và nhiệm vụ cách mạng của cả nước, tạo ra sức mạnh to lớn để đánh thắng kẻ thù. Một trong những đặc điểm lớn nhất và khó khăn lớn nhất là khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, xuất hiện mâu thuẫn về chiến lược, sách lược và phương pháp chống chủ nghĩa đế quốc giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh quốc tế và trong nước có những biến động hết sức phức tạp, vấn đề đặt ra cho Đảng ta là phải có đường lối cụ thể, phù hợp với đặc điểm của mỗi miền, của chung cả nước và phù hợp với tình hình thế giới và xu thế chung của thời đại. Sau khi nghiên cứu, Đảng ta đề ra đường lối chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Dù thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng khác nhau, nhưng giữa cách mạng hai miền có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, cùng thực hiện một mục tiêu chung của cách mạng cả nước là hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

Bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt nên việc xác định vị trí cách mạng của mỗi miền là không hề đơn giản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định, cách mạng miền Nam giữ vị trí rất quan trọng, Đảng ta đánh giá: “Quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”[6], đưa giang sơn về một mối. Trong quá trình lãnh đạo, nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này, rất khó phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để đánh thắng kẻ thù hùng mạnh. Chính vì sự kết hợp chặt chẽ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cách mạng hai miền đã tạo ra thế và lực cho nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn miền Nam. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 kêu gọi toàn Đảng, ở cả miền Bắc và miền Nam, tăng cường đoàn kết nhất trí, nâng cao tinh thần cảnh giác, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân cả nước, ra sức phấn đấu giành thắng lợi trong giai đoạn mới. Đây cũng là yếu tố đưa đến thành công trong quá trình chỉ đạo chiến lược của Đảng ta.

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu: Trần Mai Hưởng/TTXVN

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghệ thuật quân sự và chiến tranh nhân dân đã phát triển tới đỉnh cao. Nhân tố bảo đảm cho sự phát triển không ngừng của chiến tranh nhân dân đó là lực lượng vũ trang nhân dân, gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích được xây dựng vững mạnh, bố trí rộng khắp; trong đó, các binh đoàn chủ lực giữ vai trò nòng cốt trong các chiến dịch, thực hiện tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Nắm vững quy luật chiến tranh, vận dụng và thực hiện sáng tạo nghệ thuật chiến tranh nhân dân, chúng ta đã từng bước chuyển hóa cục diện chiến trường theo hướng có lợi, luôn đánh địch trên thế mạnh, thế chủ động, thế bất ngờ. Nét đặc sắc, độc đáo của chiến tranh nhân dân còn được thể hiện ở sự kết hợp chặt chẽ các nhân tố “thế, lực, thời, mưu” trong từng trận đánh, từng chiến dịch một cách linh hoạt, làm cho địch không thể lường được các hướng, mũi, lực lượng và sức mạnh tiến công của ta. Đó là cơ sở để Đảng ta kiên trì thực hiện phương châm chiến lược: đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi cuối cùng bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Với sự nhạy bén trong chiến lược, nắm bắt và đánh giá đúng tình hình, tương quan lực lượng, Đảng ta kịp thời điều chỉnh, đề ra kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giành thắng lợi hoàn toàn trong thời gian chưa đầy hai tháng. Việc giành toàn thắng là do Đảng ta sớm xác định thời cơ chiến lược; có sự chuẩn bị về mọi mặt, đặc biệt là tiến hành xây dựng các binh đoàn cơ động chủ lực mạnh; phát triển thế trận trên các vùng chiến lược nhằm kết hợp tác chiến; các đòn tiến công quyết định của bộ đội chủ lực và lực lượng nổi dậy của quần chúng nhân dân ở khắp các địa phương trên toàn miền Nam. Đây được xem là sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến. Giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo, tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là thành quả vĩ đại của Nhân dân ta, thể hiện ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Với đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, Đảng ta huy động được cao nhất sức mạnh vật chất và sức mạnh chính trị - tinh thần, sức mạnh truyền thống yêu nước nồng nàn của đất nước nghìn năm văn hiến cho cuộc kháng chiến. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với quan điểm đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng ta đã phát huy hiệu quả sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất gay gắt, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố và các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống có chiều hướng gia tăng, tạo ra nhiều thách thức mới.

Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực; tiềm lực mọi mặt của đất nước được tăng cường, uy tín, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao, song cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch vẫn đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta.

Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta rất nặng nề, đan xen cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức. Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các lực lượng, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt. Năm 2022, kỷ niệm 47 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước cũng là năm thứ hai, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đây là sự kiện trọng đại đối với Đảng ta, dân tộc ta; đồng thời, cũng là dịp để Đảng ta nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phát huy trí tuệ của toàn Đảng, hoàn thiện đường lối đổi mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới./.

-------------------------

Ghi chú:

[1] Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, H.2001, tr.226.

[2] Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H.2002, tr.82.

[3] Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự thật, H.1985, tập 1 [1954-1965], tr.119.

[4] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, tập 3, Nxb CTQG, H.1997, tr.27.

[5] Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 26, Nxb CTQG, H.2003, tr.633.

[6] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, tập 1, xuất bản tháng 9/1960, tr.34

Đại tá, TS Bùi Quang Huy, Trường Sĩ quan Chính trị

Theo: //tcnn.vn/

Video liên quan

Chủ Đề