Ví dụ tính đồng thời giữa sản xuất và tiêu dùng

Các sản phẩm đồng nhất không còn là tên gọi mới mẻ hiện này, những sản phẩm này được nhắc đến thường sẽ có chung các đặc điểm và phẩm chất vật lý tương tự với các sản phẩm tương tự nhưng lại từ những nhà cung cấp khác nhau. Để có cái nhìn toàn diện hơn thế nào là một sản phẩm đồng nhất trái ngược với một sản phẩm không đồng nhất và cách hiểu về chúng như thế nào là đúng?

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Sản phẩm đồng nhất là gì?

Sản phẩm đồng nhất (có tên tiếng anh là: homogeneous product), đây là hàng hoá người mua coi những sản phẩm là mặt hàng thay thế hoặc hoán đổi một cách hoàn hảo cho nhau đồng thời đây là người mua có thể không cảm thấy ưa thích sản phẩm của nhà cung cấp nào hơn. Sản phẩm này do các nhà cung cấp cạnh tranh trên một thị trường bán ra và người mua tin tưởng chúng đồng nhất với nhau hoặc hoàn toàn tương tự nhau. Trong trường hợp này, tính đồng nhất tạo ra một hệ quả đó là không có nhà cung cấp nào có khả năng định giá mà khác với mức giá thị trường đối với sản phẩm của chính mình.

Sản phẩm đồng nhất được hiểu là sản phẩm không mang đặc điểm vật lý hoặc đặc trương để nhận biết duy nhất hoặc thậm chí là rất ít. Các sản phẩm đồng nhất thường trái ngược trong luật cạnh tranh với các sản phẩm khác biệt, có các thuộc tính sản phẩm khác nhau (ví dụ, thiết kế, màu sắc, nhãn hiệu hoặc bất kỳ đặc điểm cụ thể nào khác) có thể thu hút các thị hiếu hoặc sở thích khác nhau của người tiêu dùng. Một số ví dụ về các sản phẩm đồng nhất bao gồm xi măng, thép và hóa chất đầu vào cho các sản phẩm khác. Những loại sản phẩm này có xu hướng dễ bị ấn định giá và các thỏa thuận chống cạnh tranh khác (ví dụ, thỏa thuận phân chia thị trường hoặc hạn chế sản lượng) dựa trên thực tế là khó cạnh tranh hơn trên bất kỳ cơ sở nào khác ngoài giá cả.

Ở một phương diện khác, sản phẩm đồng nhất là một sản phẩm không thể phân biệt với các sản phẩm cạnh tranh từ các nhà cung cấp khác nhau. Nói cách khác, sản phẩm về cơ bản có các đặc tính và chất lượng vật lí tương tự như các sản phẩm từ các nhà cung cấp khác. Một sản phẩm có thể dễ dàng được thay thế cho sản phẩm khác. Đối với người mua, nó có nghĩa là bạn không thể biết sự khác biệt giữa một sản phẩm từ Công ty ABC và một sản phẩm từ Công ty XYZ.

2. Hiểu về sản phẩm đồng nhất:

2.1. Mua sản phẩm đồng nhất, hiểu thế nào cho đúng?

Khi mua một sản phẩm được coi là sản phẩm đồng nhất, thì đồng nghĩa với việc tất cả các phiên bản của sản phẩm đều phục vụ chính xác với cùng một mục đích và không cần quan tâm đến việc phải sử dụng loại nào. Do đó, nếu bạn đang mua sắm để lựa chọn sản phẩm hoàn hảo và tốt nhất, thì sự khác biệt duy nhất được nhắc đến ở đây sẽ là giá cả của sản phẩm. Thuật ngữ này thường được áp dụng cho các sản phẩm nông nghiệp và các mặt hàng kim loại và năng lượng. Ví dụ: khi bạn mua một túi táo xanh, ta có thể không biết chúng có nguồn gốc xuất xứ từ đâu hoặc ai là người đã trồng ra chúng (hoặc đây cũng là vấn đề mà bạn chẳng bao giờ quan tâm tới). Để chọn lựa giá cả phù hợp, đây được coi là yếu tố duy nhất. Ngược lại, sản phẩm không đồng nhất là một sản phẩm dễ phân biệt với các sản phẩm cạnh tranh và không thể dễ dàng thay thế cho nhau. Đối với người mua, điều này có nghĩa là bạn phải quyết định tính năng nào của sản phẩm là quan trọng nhất đối với bạn. Trong kinh tế học, ta phân loại hàng hoá thành 2 dạng: hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung đây là nguyên nhân mà một trong hai hoặc nhiều hàng hóa (sản phẩm) được phân loại bằng cách kiểm tra mối quan hệ của bản kê khai yêu cầu khi giá cả của một sản phẩm thay đổi.

Trong khái niệm của sản phẩm đồng nhất có nhắc đến hàng hóa thay thế, loại hàng hóa này còn có tên gọi khác là sản phẩm thay thế, chúng được hiểu là hàng hóa có thể thay thế các loại hàng hóa khác tương đương về công dụng (hoặc tiêu thụ) khi có các điều kiện thay đổi. Loại hàng hóa nói trên còn có thể có chất lượng thấp hơn hay cao hơn loại hàng hóa nó có khả năng hay thế được, đồng thời các sản phẩm đó đa số có mức giá rẻ hơn. Trung Quốc nằm trong số những quốc gia sản xuất những hàng hóa có giá khá rẻ so với chất lượng trung bình đồng thời  có thể sẽ thấp hơn so với mặt bằng chung, có thể được xem là hàng hóa thay thế cho các sản phẩm cao cấp từ các nước khác, một số khách hàng không quan tâm lắm đến chất lượng của hàng hóa, họ chỉ quan tâm hàng hóa có thể thay thế được hay không với giá cả phải chăng, do đó tăng tính cạnh tranh và sức mua của người tiêu dùng.

2.2. Ví dụ về sản phẩm đồng nhất:

Ví dụ đầu tiên, các đặc điểm vật lí cho các mặt hàng tương tự có thể khác nhau giữa các nhà cung cấp. Điều này có nghĩa là quảng cáo, tên thương hiệu, bao bì, bảo hành và các yếu tố thiết kế, chẳng hạn như màu sắc, kích thước và hình dạng, sẽ ảnh hưởng đến quyết định mua của bạn. Giá thực tế có thể thay đổi đáng kể từ sản phẩm này sang sản phẩm khác vì các nhà cung cấp có thể làm cho sản phẩm của họ có vẻ khác biệt so với đối thủ.

Ví dụ tiếp theo, đối với người mua, Ford Mustang có thể dễ dàng phân biệt với Chevrolet Camaro, mặc dù cả hai đều là xe hơi và phục vụ cùng một chức năng cơ bản. Những thứ như quảng cáo, lòng trung thành thương hiệu, hình ảnh và phong cách bên ngoài sẽ là yếu tố quyết định của người mua. Giá cả có lẽ không phải là yếu tố quan trọng nhất trong quyết định mua hàng của họ. Để dễ dàng phân biệt với Chevrolet Camaro, mặc dù cả hai đều là ô tô và phục vụ cùng một chức năng cơ bản. Những thứ như quảng cáo, lòng trung thành với thương hiệu, hình ảnh và phong cách bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến quyết định của người mua. Giá cả có lẽ không phải là yếu tố quan trọng nhất trong quyết định mua hàng.

Ví dụ, một loại hàng hóa thay thế cho sữa tươi đó là sữa đặc, thì chúng có mức giá thấp hơn nếu theo mặt bằng chung của thị trường, tuy nhiên xét về chất lượng của loại sản phẩm này thì chúng chắc chắn không tốt bằng. Các loại sản phẩm khác như cà phê hay trà đều sẽ được đóng gói thành những túi nhỏ tạo nên sự tiện lợi đối với khách hàng khi sử dụng nó, đây cũng được coi là những mặt hàng thay thế khá tốt cho tách trà và cà phê với thiết kế và sự tiện ích mang tính truyền thống.

Xem thêm: Sản phẩm bình quân là gì? Ví dụ và giải thích đường sản phẩm bình quân

Tuy rằng định nghĩa về một sản phẩm đồng nhất là giống nhau trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, các ứng dụng và sự quan tâm xung quanh thuật ngữ này là khác nhau. Giả sử, trong chuyên ngành kinh tế học, một sản phẩm đồng nhất là một trong những đặc điểm được sử dụng để mô tả một thị trường cạnh tranh hoàn hảo nơi người tiêu dùng coi các loại sản phẩm là giống hệt nhau. Đến lượt nó, điều này xác định bản chất của các mối quan hệ liên quan đến người mua và người bán trên thị trường. Trong ngắn hạn, thuật ngữ này được sử dụng trong cuộc thảo luận về lý thuyết kinh tế.

2.3. Quy định pháp luật nhằm giảm tình trạng sản phẩm đồng nhất:

Nhãn của hàng hóa, sản phẩm cũng là một trong những yếu tố quan trong quyết định sản phẩm đó có được coi là sản phẩm đồng nhất hay không. Theo Khoản 2 Điều 3 Nghị định 43/2017 NĐ-CP (Quy định ghi nhãn hàng hóa có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2017 để thay thế Nghị định 89/2006/NĐ-CP) thì: ghi nhãn hàng hóa, sản phẩm là thể hiện nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hóa lên nhãn hàng hóa để người tiêu dùng nhận biết, làm căn cứ lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng; để nhà sản xuất, kinh doanh, thông tin, quảng bá cho hàng hóa của mình và để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát. Bên cạnh đó, Nghị định này cũng quy định: hàng hóa được sản xuất và lưu thông trong nước, ngoài việc ghi nhãn bằng Tiếng Việt thì nội dung thể hiện trên nhãn có thể được ghi bằng ngôn ngữ khác; nội dung ghi bằng ngôn ngữ khác phải tương ứng nội dung Tiếng Việt; kích thước chữ được ghi bằng ngôn ngữ khác không được lớn hơn kích thước chữ của nội dung ghi bằng tiếng Việt; hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam mà trên nhãn chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa đủ những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt thì phải có nhãn phụ thể hiện những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt và giữ nguyên nhãn gốc của hàng hóa. Nội dung ghi bằng tiếng Việt phải tương ứng với nội dung ghi trên nhãn gốc.

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm dịch vụ
  • 2. Bản chất của dịch vụ
  • 3. Đặc điểm cơ bản của dịch vụ
  • 3.1 Tính vô hình
  • 3.2 Không thể tách rời
  • 3.3 Tính không thể cất giữ
  • 3.4 Tính đa dạng
  • 3.5 Sự tham gia của người dùng
  • 4. Các loại dịch vụ phổ biến hiện nay
  • 5. Vai trò dịch vụ

1. Khái niệm dịch vụ

Có nhiều định nghĩa khác nhau về dịch vụ. Nhưng nhìn chung các định nghĩa đều thống nhất dịch vụ là sản phẩm của lao động, không tồn tại dưới dạng vật thể, quá trình sản xuất và tiêu thụ xảy ra đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng.

Theo như nghĩa rộng, sản phẩm dịch vụ là một lĩnh vực kinh tế thứ 3 thuộc vào nền kinh tế quốc dân. Nó bao gồm nhiều hoạt động về kinh tế bên ngoài 2 lĩnh vực chính đó là nông nghiệp và công nghiệp.

Tuy nhiên theo nghĩa hẹp, sản phẩm dịch vụ lại là các hoạt động có ích của con người nhằm mang tới những sản phẩm không tồn tại được dưới dạng hình thái vật chất và không dẫn tới việc sở hữu hay chuyển giao quyền sở hữu. Thế nhưng vẫn có thể đáp ứng được đầy đủ và nhanh chóng, văn minh những nhu cầu về sản xuất và đời sống trong xã hội.

Dịch vụ là những sản phẩm kinh tế gồm công việc dưới dạng lao động thể lực, quản lý, kiến thức, khả năng tổ chức và những kỹ năng chuyên môn nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân và tổ chức.

Theo Philip Kotler: “dịch vụ là bất kỳ hoạt động hay lợi ích nào mà chủ thể này có thể cung cấp cho chủ thể kia. Trong đó đối tượng cung cấp nhất định phải mang tính vô hình và không dẫn đến bất kỳ quyền sở hữu một vật nào cả. Còn việc sản xuất dịch vụ có thể hoặc không cần gắn liền với một sản phẩm vật chất nào”

- Trong kinh tế học Dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật chất. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và những sản phẩm thiên hẳn về sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên đa số là những sản phẩm nằm trong khoảng giữa sản phẩm hàng hóa, dịch vụ (nguồn trích dẫn wikipedia.org)

- Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [Từ điển Tiếng Việt, 2004, NXB Đà Nẵng, tr256]

- Từ điển Wikipedia: Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất Theo quan điểm kinh tế học, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ...và mang lại lợi nhuận.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật giá năm 2012, dịch vụ là hàng hóa mang tính vô hình, trong quá trình sản xuất và tiêu dùng không hề tách rời nhau, bao gồm những loại dịch vụ trong hệ thống các ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật.

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cung ứng dịch vụ rất đa dạng, phong phú. Đó có thể là các dịch vụ tiêu dùng như ăn uống, sửa chữa nhà cửa, máy móc gia dụng; các dịch vụ công cộng như cung ứng điện, nước, vệ sinh đô thị; các dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải; các dịch vụ mang tính nghề nghiệp chuyên môn cao như kiểm toán, tư vấn kiến trúc, bác sĩ, tư vấn pháp luật...

2. Bản chất của dịch vụ

- Là quá trình vận hành các hoạt động, hành vi dựa vào các yếu tố vô hình nhằm giải quyết các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng.

- Gắn liền với hiệu suất/ thành tích bởi mỗi dịch vụ đều gắn với mục tiêu là mang lại giá trị nào đó cho người tiêu dùng. Hiệu suất ở đây chính là những tiện ích, giá trị và giá trị gia tăng mà khách hàng nhận được sau khi sử dụng dịch vụ.

- Là một quá trình, nó diễn ra theo một trình tự nhất định bao gồm nhiều giai đoạn, nhiều bước khác nhau. Trong mỗi giai đoạn đôi khi sẽ có thêm nhiều dịch vụ phụ, dịch vụ cộng thêm.

3. Đặc điểm cơ bản của dịch vụ

3.1 Tính vô hình

Đầu tiên, khi nghĩ về các đặc điểm của dịch vụ, tính vô hình có thể xuất hiện trong đầu bạn. Tính vô hình của dịch vụ có nghĩa là các dịch vụ không thể được nhìn thấy, nếm, cảm nhận, nghe hoặc ngửi trước khi chúng được mua. Bạn không thể thử chúng. Chẳng hạn, hành khách của hãng hàng không không có gì ngoài một vé và một lời hứa rằng họ sẽ đến vào một thời điểm nhất định tại một điểm đến nhất định. Nhưng không có gì có thể chạm vào.

3.2 Không thể tách rời

Đặc điểm của dịch vụ bao gồm không thể tách rời, có nghĩa là dịch vụ được sản xuất và tiêu thụ cùng một lúc. Điều này cũng đòi hỏi rằng các dịch vụ không thể tách rời khỏi các nhà cung cấp của họ. Trái với các dịch vụ, hàng hóa vật chất được sản xuất, sau đó được lưu trữ, sau đó được bán và thậm chí sau đó được tiêu thụ. Dịch vụ được bán đầu tiên, sau đó được sản xuất và tiêu thụ cùng một lúc. Một sản phẩm có thể, sau khi sản xuất, được lấy đi từ nhà sản xuất. Tuy nhiên, một dịch vụ được sản xuất tại hoặc gần điểm mua hàng.

Ví dụ, khi đến nhà hàng, bạn đặt bữa ăn, chờ đợi và giao bữa ăn, dịch vụ được cung cấp bởi lễ tân, người phục vụ… Tất cả các bộ phận này, bao gồm các nhà cung cấp, là một phần của dịch vụ và do đó không thể tách rời. Trong tiếp thị dịch vụ, một nhà cung cấp dịch vụ là sản phẩm.

3.3 Tính không thể cất giữ

Dịch vụ không thể được lưu trữ để bán hoặc sử dụng sau này. Nói cách khác, dịch vụ không thể được kiểm kê. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ, vì nó có thể có tác động lớn đến kết quả tài chính.

Ví dụ: Các bác sĩ hoặc nha sĩ thường tính phí bệnh nhân cho các cuộc hẹn lỡ vì giá trị dịch vụ đã bị mất. Giá trị chỉ tồn tại ở thời điểm cụ thể đó và biến mất khi bệnh nhân không đến.

Khi nhu cầu ổn định, tính dễ hỏng của dịch vụ không phải là vấn đề. Tuy nhiên, trong trường hợp nhu cầu biến động, các công ty dịch vụ có thể gặp vấn đề khó khăn. Vì lý do này, các công ty vận tải sở hữu nhiều thiết bị hơn so với nhu cầu trong cả ngày: nhu cầu trong giờ cao điểm cần được phục vụ vào thời gian cụ thể đó, không thể phục vụ sau hoặc sớm hơn.

Nếu như các sản phẩm, hàng hóa hữu hình có thể lưu giữ, bảo quản được thì sản phẩm dịch vụ lại không thể cất giữ được trong kho. Nó chính là một phần đệm điều chỉnh về sự thay đổi nhu cầu về thị trường.

Khi cung cầu thị trường có sự chênh lệch thì để làm cân đối về cung cầu bạn có thể áp dụng các biện pháp nhau.

Đối với phía cầu

  • Đánh giá phân biệt.
  • Tổ chức những dịch vụ bổ sung vào các khoảng thời gian cao điểm.
  • Xây dựng hệ thống đặt chỗ trước.

Đối với phía cung

  • Thuê thêm các nhân viên làm việc theo hình thức bán thời gian.
  • Trang bị thêm các loại máy móc, trang thiết bị hiện đại.
  • Nên khuyến khích các khách hàng có thể tự phục vụ trong một số công đoạn nhất định.

3.4 Tính đa dạng

Sự thay đổi cũng thuộc về các đặc điểm quan trọng của dịch vụ. Nó đề cập đến thực tế là chất lượng dịch vụ có thể thay đổi rất nhiều, tùy thuộc vào người cung cấp chúng và khi nào, ở đâu và như thế nào. Do tính chất thâm dụng lao động của dịch vụ, có rất nhiều sự khác biệt về chất lượng dịch vụ được cung cấp bởi các nhà cung cấp khác nhau, hoặc thậm chí bởi cùng một nhà cung cấp tại các thời điểm khác nhau.

3.5 Sự tham gia của người dùng

Cuối cùng, các đặc điểm của dịch vụ bao gồm sự tham gia của người dùng. Thật vậy, người dùng tham gia vào mọi sản xuất dịch vụ. Ngay cả khi người dùng không bắt buộc phải ở một địa điểm nơi dịch vụ được thực hiện, người dùng vẫn tham gia vào mọi hoạt động sản xuất dịch vụ. Một dịch vụ không thể tách rời khỏi nhà cung cấp của nó, nhưng cũng không thể tách rời nó khỏi người dùng.

4. Các loại dịch vụ phổ biến hiện nay

Xét theo phương pháp loại trừ

- Thương mại

- Vận chuyển, phân phối, lưu kho

- Dịch vụ y tế

- Ngân hàng, bảo hiểm

- Dịch vụ chăm sóc sức khỏe

- Dịch vụ bưu chính viễn thông

- Kinh doanh bất động sản

- Dịch vụ công cộng, dịch vụ khối công quyền

- Dịch vụ đào tạo, trông trẻ

Xét theo mức độ liên hệ với khách hàng

Các loại dịch vụ thuần túy:

- Dịch vụ Khách sạn

- Dịch vụ Đào tạo

- Dịch vụ Giao thông công cộng

- Dịch vụ Chăm sóc sức khỏe

- Dịch vụ Nhà hàng.

Dịch vụ pha trộn:

- Dịch vụ Chi nhánh văn phòng

- Dịch vụ Ngân hàng

- Dịch vụ Dịch vụ về bất động sản

- Dịch vụ máy tính

- Dịch vụ Bưu điện

- Dịch vụ tang lễ

- Dịch vụ Du lịch.

Dịch vụ bao hàm sản xuất:

- Dịch vụ Hàng không

- Dịch vụ Dịch vụ khối công quyền

- Dịch vụ Dịch vụ sửa chữa

- Dịch vụ Dịch vụ thương nghiệp.

5. Vai trò dịch vụ

Dịch vụ luôn giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế hiện nay. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp mà còn cả với nền kinh tế quốc dân. Dưới đây là một số vai trò của dịch vụ chúng ta không nên bỏ qua như:

- Đối với nền kinh tế quốc dân

+ Góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa, tiền tệ trong nền kinh tế

+ Đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế

+ Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

+ Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động

+ Dịch vụ thể hiện trình độ văn minh thương mại của một quốc gia.

- Đối với doanh nghiệp

+ Dịch vụ đem lại nguồn thu lớn cho doanh nghiệp ở cả 2 khía cạnh:

Nguồn thu trực tiếp từ cung ứng dịch vụ

Nhờ có dịch vụ mà bán được nhiều hàng hóa hơn, từ đó mở rộng được thị trường kinh doanh

+ Dịch vụ là vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất, cao nhất trên thương trường:

Cấp độ 1: Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm

Chất lượng sản phẩm dễ bị sao chép

Chất lượng sản phẩm bị chi phối bởi vấn đề tài chính

Cấp độ 2: Cạnh tranh bằng giá

Khả năng chi phối giá của các công ty lớn trên thị trường

Việc điều chỉnh giá cả sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận

Cấp độ 3: Cạnh tranh bằng dịch vụ

Dịch vụ khó chuẩn hóa

Dịch vụ không có giới hạn cuối cùng

Trên đây là những thông tin cơ bạn nhất để giúp bạn hiểu rõ hơn về khái niệm dịch vụ là gì. Bản chất vốn có và những đặc điểm cơ bản của dịch vụ đều được tổng hợp trong bài. Hi vọng bài viết đã mang đến cho bạn những thông tin mà bạn đang tìm kiếm.

Ngoài ra, nếu còn vấn đề vướng mắc hoặc băn khoăn về những nội dung trên hoặc các nội dung khác liên quan tới giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Toà án, Quý khách hàng có thể liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6162 để được giải đáp thêm.

Trân trọng./

Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty luật Minh Khuê